Yang ơi có thấu (1)
Jarai, Jơrai hay Jrai là những cách gọi khác nhau về một tộc người đông nhất, cố kết nhất, có nền văn hóa lâu đời nhất trên Tây Nguyên Việt Nam. Họ đã ở đó hàng ngàn năm qua, giữa núi rừng mênh mông và các thần linh của họ như một đất nước.
Tôi đến Ayunpa, thủ phủ của người Jrai, sau đó là Krông Pa chỉ với ý định dạy học cho những em bé Jrai trong ba tháng hè. Không dám có ước muốn tìm hiểu một dân tộc thẳm sâu và lạ lùng trong quãng thời gian ngắn như thế. Nhưng khi tôi đặt chân lên mảnh đất huyền thoại này, chỉ cần bước chân vào tiệm ăn đã thấy sự bất công, huống hồ là ba tháng chứng kiến cuộc sống người dân.
Những cuốn sách viết về người Jrai, về Tây nguyên, đều vẽ lên những hình ảnh đẹp đẽ và thơ mộng của một thời đã qua. Thời của già làng đêm đêm bên bếp lửa bập bùng kể akhan, thời của Pơtao quyền lực bậc nhất Tây Nguyên, thời của núi rừng bạt ngàn và sông suối trong veo… Tất cả đã qua rồi.
Giờ đây, những gì còn lại chỉ là một dân tộc đang lụi tàn.
Do đó, tập bút ký mỏng này tôi xem như một lời tạ lỗi tới tất cả bạn bè Jrai, học trò của tôi và cả những bờ sông. Vì tôi là người Kinh.
Duyên nợ cao nguyên
Tôi đi Ayunpa hay còn gọi là Phú Bổn, Cheo Reo giữa một buổi trưa tháng năm đầy nắng và gió của miền cao nguyên. Từ Ban Mê Thuột dọc theo quốc lộ 14, còn cách Pleiku chừng 40 cây số nữa thì gặp ngã ba Chư Sê, rẽ tay phải vào quốc lộ 25 về hướng Tuy Hòa, đi thêm khoảng 60 cây số nữa là tới Ayunpa. Tổng cộng đoạn đường dài gần 200km, đi xe khách mất hơn bốn tiếng đồng hồ.
Ra khỏi Ban Mê chừng 10 cây số, thấy hai bên đường bạt ngàn cao su, những vườn hồ tiêu thẳng tắp và nương rẫy hoa màu tốt tươi. Đất đỏ bazan dưới cái nắng ban trưa như đỏ hơn và màu mỡ hơn. Mùa này, hoa dã quỳ nở vàng rộm hai bên đường và từng đàn bướm trắng dập dìu trên những khóm hoa. Bướm nhiều đến mức có cảm tưởng như lạc vào thế giới thần tiên và vơ được chúng trong tay. Nhưng chạy xe honda thì phải canh chừng mà “né” bướm kẻo chúng tông sưng mắt lúc nào không hay. Trời nắng nhưng không oi bức như Sài Gòn vì không gian thoáng đãng và thanh sạch. Ngay khi từ Sài Gòn đi Ban Mê, lòng tôi đã trào dâng cái cảm giác hạnh phúc được quay lại cao nguyên. Bao giờ lên đây, tôi cũng cảm thấy sung sướng và bình yên lạ lùng. Cảm giác ấy tôi xem như duyên nợ với người Tây Nguyên, ngay từ lần đầu tôi rong ruổi trên đây cùng con ngựa sắt cách đây năm năm.
Ngày ấy, tôi là cô sinh viên 18 tuổi đầy lý tưởng và máu lửa phiêu lưu. Một mình đạp xe từ Di Linh lên tới Kontum ròng rã suốt một tháng trời. Phải xin ăn, xin ngủ, xin uống dọc đường như một kẻ hành khất. Còn nhớ một ngày mưa bão dầm dề từ Di Linh qua Gia Nghĩa, bụng đói, rét mướt, mệt mỏi, đường đi không một bóng người. Trời tối rồi mà còn lang thang giữa rừng núi Đinh Trang Thượng đầu nguồn sông Đồng Nai loay hoay tìm nhà dân xin ngủ. May mắn thay được một gia đình tốt bụng cho tá túc qua đêm. Tôi không bao giờ quên nồi nước sôi hai bác nấu cho tôi tắm khỏi lạnh và trái bắp luộc nóng hổi dằn bụng đêm. Sáng ra đi, bác gái dúi vào tay tôi nải chuối xứ, chai nước trà nóng rồi mặc áo mưa tiễn tôi đi. Thật không ngờ, nải chuối xứ lại trở thành cầu nối cho tôi quen biết anh em công nhân cầu đường hạt Quảng Khê, để tối về uống chung ly rượu và nghêu ngao hát “ Cây đàn Chapi”, lúc đi không khỏi bùi ngùi đến chẳng dám quay đầu nhìn lại. Nếu không có những lời chúc bình an của anh em bạn bè, có lẽ tôi đã lao xuống vực thẳm vì đứt thắng trên đèo Quảng Khê. Và nếu giữa lúc mệt nhọc đến bở hơi tai chỉ muốn quăng hành lý và người lên xe ca đi thẳng tới Kontum cho xong chuyện, mà không bắt gặp người tài xế đi ngược chiều hô to: “Cố lên, cố lên”, thì chắc gì chuyến đi đã thành công. Không có những con người nhân hậu tiếp sức cho tôi, thì làm sao tôi có được giây phút đắm mình trong làn nước trong vắt của cụm thác Draysap – Dray nur, hít thở hương vị thanh khiết của đồi chè Pleiku, lắng nghe tiếng đàn ghitar rộn rã dưới ánh trăng bên dòng Đăk Bla, và say men ngọt ngào của rượu cần Bana.
Giờ đây, khi đi lại cung đường ngày xưa, từng kỷ niệm lần lượt sống lại trong tôi, rõ ràng và sống động. Xe chạy ngang qua nhà thờ Buôn Hồ, nơi một buổi trưa lang bạt của nhiều năm trước tôi đã ghé vào cầu nguyện xin bình an. Quả thật, trong chuyến đi ấy không có ơn trên thì có lẽ tôi đã thành người thiên cổ. Còn đây là Earal, Eh’leo có café uống ngon đến nhớ đời. Tối ngủ nhờ trong tiệm hớt tóc của chị Trúc, sáng ra đi, chị tặng tôi một cái đầu cắt kiểu “đờ-mi-gắc–song” làm kỷ niệm. Sau này, khi kết thúc cuộc hành trình, tôi mới nghiệm ra được tình ý sâu xa của chị chủ tiệm, vì nhờ kiểu tóc đó mà tôi không bị chọc ghẹo trên đường và cũng chẳng ma nào thèm để ý đến một đứa “con trai”. Tôi muốn tìm gặp lại những ân nhân cũ nhưng nhà cửa đổi thay, người xưa xê chuyển, biết đâu mà lần. Thôi thì xin gửi vào thinh không lời nguyện chúc bình an và ghi lòng ân nghĩa cưu mang. Âu cũng là duyên nợ.
Tất cả những kỷ niệm đẹp đẽ trên, tạo trong tôi một cảm tình rất tốt với ai quê quán từ cao nguyên. Tôi mê cao nguyên không đơn thuần chỉ vì vẻ đẹp trinh khôi của nó, mà còn vì trong chuyến đi mạo hiểm đầu đời, tôi được những con người tốt bụng của cao nguyên đùm bọc khi sa cơ lỡ bước. Giờ đây, tôi muốn làm một cái gì đó cho vùng đất đáng yêu này. Cũng có lẽ vì vậy mà tôi đồng ý rất nhanh khi một người bạn Jrai của tôi, tên là Mơai đang học xã hội học ở trường Đại học Mở, ngỏ ý xem tôi có muốn về Ayunpa dạy học cho các em người Jrai trong tháng sáu và bảy không. Đây là một hoạt động mục vụ của nhà thờ để giúp con em người Jrai học tốt hơn. Mơai nói rằng có hai nơi tôi có thể giúp là Ayunpa và Krôngpa. Cả hai nơi này tôi chưa hề đặt chân tới và lần đầu nghe tên, nên không hình dung ra được nơi đây như thế nào. Hiện tại, Ayunpa đã thực hiện chương trình dạy hè được ba năm rồi nên thầy cô và trường lớp khá đầy đủ. Còn Krôngpa là giáo điểm mới, chỉ có một mình cha Gioan mà phải coi sóc hơn 40 buôn làng. Năm nay là năm đầu tiên dạy hè, nên rất cần người. Ngoài tôi ra, Mơai nói còn có thêm năm bạn sinh viên bên trường Đại học Mở cũng đăng ký lên đó dạy nữa, nếu tôi về giúp cho cha Gioan thì rất quý. Mơai hỏi tôi chọn nơi nào. Tôi nói: “Nơi đâu cần tớ hơn thì tớ đi”. Mơai cười lớn nói: “Về Krôngpa khổ lắm đó, đừng có hối hận đấy”. Tôi bảo: “Ở cao nguyên là sướng rồi”. Mơai mừng rỡ ra mặt và nói sẽ giúp tôi hết sức có thể.
Hành động “hết sức” đầu tiên là Mơai gọi điện cho mẹ bạn ấy ở Ayunpa và hí hửng khoe rằng: “Con mới “cưa” được một cô bé. (Mặc dù thua tôi ba tuổi, Mơai vẫn luôn kêu tôi bằng “cô bé”). Cô bé đó sẽ ở nhà mình ít hôm học tiếng và văn hóa để tập làm dâu… Jrai. Mẹ chịu không?”. Tôi không nghe đầu dây bên kia phản đối gì, chỉ thấy nói: ‘Ừ, cứ về đi”. Thật là rộng lượng quá xá! Tôi xin số điện thoại của cha Gioan và địa chỉ nhà Mơai ở Ayunpa để chuẩn bị cho một chuyến đi xa và đi lâu.
Đầu tháng tư, tôi gọi điện cho cha Gioan xin được lên đó dạy hè cho các em. Cha rất hoan nghênh và hỏi khi nào tôi lên. Muốn dạy có kết quả tốt, tôi xin cha lên sớm hơn một tháng để học tiếng và làm quen với người dân. Cha không những đồng ý mà còn nói tôi lên ở luôn cũng được. Cha ơi, nếu quả thật con có duyên với người Jrai thì chuyện ở luôn chỉ là chuyện sớm muộn, phải không cha?
Amai B’lan
VRNs (12.07.2012) - Gia Lai
______________________________________________________
Thủ phủ Jrai (2)
Thời Pháp, vùng này có tên là Cheo Reo. Hỏi thăm người dân tôi được biết, Cheo Reo là tên của hai anh em Čruh và Čreo đến lập cư tại đây vào đầu thế kỷ 19. (Một số tài liệu ghi là Chu và Chreo). Lúc đầu, hai anh em ông lập làng tại Rongol–por–klang, nay là là vùng đất gần đập tràn Ia Hiao. Sau đó, cả làng di chuyển đến vùng đất gần sông Ayunpa, nay là thị trấn Ayunpa. Trước năm 1900, làng này có tên là Bon Chư. Năm 1904, người Pháp ký nghị định giao Tây Nguyên cho triều đình Huế, và đặt tên cho vùng đất này theo cách gọi của người Kinh là Cheo Reo (đọc trại từ hai chữ Čruh và Čreo). Như vậy, về mặt pháp lý (của chính quyền thực dân), từ năm 1904, Tây Nguyên mới chính thức thuộc về Việt Nam [1]. Ngày 1.9.1962, chính quyền Sài Gòn lập tỉnh Phú Bổn, đặt tỉnh lị tại Cheo Reo và đổi tên là thị xã Hậu Bổn. Chính điều này khiến cư dân vùng Cheo Reo có điều kiện ăn học hơn hẳn các vùng khác, sinh ra nhiều trí thức, phần lớn làm việc cho Tây (để sau 75 cũng bị đi cải tạo nhiều hơn các vùng khác). Sau năm 1975, thị xã Hậu Bổn đổi tên thành thị xã Ayunpa[2]. Người Jrai thích gọi vùng này là Cheo Reo hoặc Ayunpa vì những cái tên này vốn dĩ của người Jrai. Trong khi đó, người Kinh thích gọi là Phú Bổn vì dễ đọc, và vì muốn thể hiện quyền làm chủ trên mảnh đất này. Dù sao thì tôi vẫn thích cái tên Ayunpa vì nghe có vẻ như… ở nước ngoài.
Tôi tới Ayunpa khi nắng chiều vừa chạm đỉnh núi. Từ đèo Chưsê nhìn xuống, lòng chảo Cheo Reo hiện ra rõ rệt. Cả thung lũng giờ đây đã thành cánh đồng thẳng cánh cò bay lớn nhất Tây Nguyên. Con đường dẫn vào thị xã Ayunpa xuyên qua đồng lúa chín vàng đẹp như tranh vẽ, may mà khung cảnh nên thơ xoa dịu phần nào cái nắng bỏng rát không hề dễ chịu ngay cả với người bản xứ. Thời điểm này đang là cuối mùa khô nên tôi có cảm tưởng như bao nhiêu nắng nóng ông trời tranh thủ xài cho bằng hết trước khi mùa mưa tới vào đầu tháng sáu. Nhưng khi mưa vượt qua được đèo Chưsê thì đã rơi rụng gần hết, Ayunpa chỉ còn hưởng xái được chút ít. Cho nên, cũng từ đèo Chưsê ấy, đất đai trở nên khác biệt. Bên kia đèo trở ra Pleiku là đất đỏ bazan màu mỡ có thể trồng các loại cây công nghiệp như café, hồ tiêu. Còn bên này đèo đổ vào Ayunpa cho tới Phú Yên lại là đất cát pha chỉ trồng được các loại cây lương thực ngắn ngày. Vì vậy, người ta còn gọi người Jrai ở vùng Ayunpa là Jrai Čor. Čor nghĩa là rừng mọc trên cát.
Xe thả tôi xuống trước một ngôi nhà xây cấp bốn cũ kỹ, mái hiên phía trước dây leo rủ xuống như mái rèm làm tôi chẳng biết đây có phải là địa chỉ tôi cần tới hay không. Đang khi tôi lúng túng không biết phải làm sao thì trong nhà có tiếng đàn ông vọng ra:
- Có phải bạn Mơai đấy không?
Thì ra Mơai đã gọi điện báo cho bố mẹ bạn ấy biết chiều nay tôi tới, nên khi tôi vừa xuống xe với một đống hành lý lỉnh kỉnh thì hai bác biết tôi là ai liền. Thoạt đầu gặp gỡ, tôi hơi ngỡ ngàng vì ba má của Mơai còn rất trẻ, nhất là bác gái, dù đã năm mươi nhưng nhan sắc còn mặn mà, làn da mịn màng lắm, đặc biệt, đôi mắt to như hút hồn người khác. Lạ một điều là hầu như người Jrai nào tôi gặp cũng có đôi mắt to nhưng buồn vời vợi, một nỗi buồn không sao tả được.
Bác trai tên là ama H’siu. Bác gái tên là ami H’siu. Người Jrai sau khi sinh con đầu lòng, thì lấy tên con làm tên mình. Vì vậy tên hai bác có nghĩa là ba của H’siu và má của H’siu. Hai bác vui tính hỏi han tôi đủ chuyện. Nhà bác đông người nhưng con cái lập gia đình và đi học xa hết rồi, giờ nhà chỉ còn hai bác nên có vẻ quạnh hiu. Nay tôi tới, hai bác rất vui vì có người ra vào. Tôi sẽ ở đây ít ngày để học về phong tục tập quán, cách ăn ở và ngôn ngữ Jrai trước khi về Krông Pa.
Thời Pháp, vùng này có tên là Cheo Reo. Hỏi thăm người dân tôi được biết, Cheo Reo là tên của hai anh em Čruh và Čreo đến lập cư tại đây vào đầu thế kỷ 19. (Một số tài liệu ghi là Chu và Chreo). Lúc đầu, hai anh em ông lập làng tại Rongol–por–klang, nay là là vùng đất gần đập tràn Ia Hiao. Sau đó, cả làng di chuyển đến vùng đất gần sông Ayunpa, nay là thị trấn Ayunpa. Trước năm 1900, làng này có tên là Bon Chư. Năm 1904, người Pháp ký nghị định giao Tây Nguyên cho triều đình Huế, và đặt tên cho vùng đất này theo cách gọi của người Kinh là Cheo Reo (đọc trại từ hai chữ Čruh và Čreo). Như vậy, về mặt pháp lý (của chính quyền thực dân), từ năm 1904, Tây Nguyên mới chính thức thuộc về Việt Nam [1]. Ngày 1.9.1962, chính quyền Sài Gòn lập tỉnh Phú Bổn, đặt tỉnh lị tại Cheo Reo và đổi tên là thị xã Hậu Bổn. Chính điều này khiến cư dân vùng Cheo Reo có điều kiện ăn học hơn hẳn các vùng khác, sinh ra nhiều trí thức, phần lớn làm việc cho Tây (để sau 75 cũng bị đi cải tạo nhiều hơn các vùng khác). Sau năm 1975, thị xã Hậu Bổn đổi tên thành thị xã Ayunpa[2]. Người Jrai thích gọi vùng này là Cheo Reo hoặc Ayunpa vì những cái tên này vốn dĩ của người Jrai. Trong khi đó, người Kinh thích gọi là Phú Bổn vì dễ đọc, và vì muốn thể hiện quyền làm chủ trên mảnh đất này. Dù sao thì tôi vẫn thích cái tên Ayunpa vì nghe có vẻ như… ở nước ngoài.
Ayunpa là tên gọi nơi giao nhau của hai con sông: sông Ayun và sông Pa (người Kinh gọi là sông Ba). Đoạn chảy qua thị xã Ayunpa được gọi là sông Ayunpa. Từ cầu Bến Mộng nhìn xuống, có thể thấy rất rõ Ayunpa mang trong mình hai dòng chảy, một nửa trong vắt của sông Pa và một nửa đục ngầu của sông Ayun, giống như sông Thương bên đục bên trong ở Bắc Giang của người Kinh vậy. Người ta có thể lí giải nguyên nhân tại sao dòng nước lại đục trong như thế một cách rất khoa học và hợp lý, nhưng với người Jrai, mọi sự trên đời đều được giải thích bằng akhan (truyền thuyết, huyền thoại, sử thi, chuyện cổ tích, thần thoại…). Mọi gốc cây ngọn cỏ, từng ngọn núi dòng sông, đến những vật dụng trong nhà…đều có một gốc tích huyền thoại riêng của nó, và con sông Ayunpa này cũng được lý giải theo cách đó.
Trên trang web của thị xã Ayunpa có kể rằng: “Ngày xưa, xưa lắm có một đôi trai gái yêu nhau say đắm. Chàng trai tên Pa. Còn cô gái tên Ayun. Chàng Pa sức khoẻ như con voi rừng, mũi tên của chàng bắn ra cùng lúc rụng 10 con chim đang bay trên trời. Nhác thấy bóng chàng Pa trên lưng ngựa, là con cọp, con beo trên rừng đều tháo chạy. Còn nàng Ayun có nước da trắng như bông hoa ê ban, giọng nói trong trẻo tựa tiếng hót của con chim Kơ tia. Tình yêu của đôi trai giá rất nồng thắm, song họ không lấy được nhau bởi chàng Pa chỉ là tôi tớ giúp việc trong gia đình của nàng Ayun. Đau khổ vì không lấy được nhau, Ayun và Pa rủ nhau cùng chết để giữ trọn mối tình đẹp đẽ ấy. Sau khi chết, hai người hoá thành hai dòng sông Ayun và sông Ba. Nhiều người cho rằng, hàng năm có một ngày vào mùa xuân, chàng Pa và nàng Ayun vẫn hẹn hò nhau tại thung lũng Hồng dưới chân đèo Tô na. Ngày ấy mưa nhẹ, nước sông xanh trong vời vợi. Hoa đua nhau nở, chim đua nhau hót. Khi ấy là mùa xuân về…”[3]
Câu truyện nghe từa tựa như truyện Ngưu Lang – Chức Nữ của người Kinh, và thật ra, trong kho truyện dân gian của người Jrai, có nhiều truyện na ná như của người Kinh, không biết ai mượn của ai, chỉ có điều, những địa danh trong câu truyện này tôi được diễm phúc đặt chân đến, chúng có thật. Do đó, tôi cảm thấy một sự linh thiêng và gần gũi với thị xã huyền thoại này. Nếu người Kinh tự hào có một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, và không ngại ngần diễn nó ra bằng giấy mực, bút viết, các cuốn sách dày cộm thì người Jrai lại rất khiêm tốn, giấu tư tưởng, nhân sinh quan của dân tộc mình ở lỗ tai và truyền lại cho con cháu bằng những akhan. Một người Kinh đọc akhan của người Jrai xong, sẽ chỉ thấy đó là những câu chuyện ly kỳ hấp dẫn kiểu liêu trai chí dị chứ không thấy tư tưởng của người Jrai đâu cả. Phải gạt bỏ hết những lớp màng huyễn hoặc đi và phải dùng cái nhìn của người Jrai thì mới tìm thấy ý nghĩa đích thực của những akhan. Cái thẳm sâu của người Jrai là ở đó. Còn không, có đọc hàng trăm akhan cũng không hiểu, có được nghe kể hàng ngàn câu chuyện cũng chẳng biết gì về người Jrai.
Nhắc tới Ayunpa là nhắc tới một nhân vật quyền lực bậc nhất trong xã hội Jrai và toàn cõi Tây Nguyên: Pơtao Apui. Quê thương của Pơtao Apui bây giờ thuộc Plei ơi, xã Chư Athai, huyện Phú Thiện, cách Ayunpa chừng 20km. Người Jrai có tới ba vị Pơtao và mỗi vị hùng cứ một phương trời: Pơtao Ia (Pơtao nước) phía Tây, Pơtao Angin (Pơtao gió) phía Nam và Pơtao Apui (Pơtao lửa) phía Đông. Nhưng Pơtao Apui là vị Pơtao cuối cùng và cũng là người để lại dấu ấn sâu đậm nhất nơi người Jrai đến nỗi người ta xem vùng Cheo Reo là thủ phủ của người Jrai. Truyền thuyết về thanh gươm thần của Pơtao Apui càng làm cho sức ảnh hưởng của ông bao trùm lên toàn bộ các dân tộc khác trên Tây Nguyên. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình “ Pơtao, một lý thuyết về quyền lực của người Jrai Đông Dương”, cha Jacques Dournes cũng chỉ trình bày về Pơtao Apui mà thôi. Sở dĩ người Jrai có tới ba vị Pơtao là do xuất phát từ vũ trụ quan của người Jrai. Họ coi vũ trụ được cấu tạo từ ba yếu tố vật chất: nước (lỏng) – lửa (nóng) – gió(khí). Khi ba yếu tố này hài hòa, ổn định thì cuộc sống đẹp tươi, con người hạnh phúc. Pơtao là người điều hòa các yếu tố tự nhiên này bằng cách hằng năm, cứ đầu mùa gieo hạt, ông tuần du qua các buôn làng cúng cầu mưa, hoặc cúng cầu yên khi thiên tai dịch bệnh. Làm sao cho nước không quá mạnh kẻo thành lũ lụt, lửa không quá nóng sinh ra hỏa hoạn, hạn hán, gió không quá lớn biến thành bão tố[4]. Điều thú vị là người Jrai xem ba yếu tố này là một, trong một lại có ba. Có lẽ vì vậy mà khi chỉ còn một mình Pơtao Apui, người Jrai vẫn thấy bình thường.
Người Jrai tin rằng, môi trường sống của họ là một môi trường toàn linh, có nghĩa là mọi sự vật quanh họ đều có thần linh trú ngụ, nên muốn chặt một cây rừng, họ cũng phải làm lễ cúng xin thần tha lỗi rồi mới chặt chứ không chặt tầm bậy. Nên biết rằng trong xã hội Jrai có nhiều vị thần, và Ơi Adai là vị thần tối cao nhất. Có thể nói, người Jrai là một dân tộc tâm linh. Cho nên, những người cử hành nghi lễ cúng tế được kính trọng và tiếng nói có sức mạnh nhất trong xã hội Jrai. Pơtao là người đứng đầu về sức mạnh ấy vì ông là người lắng nghe và chuyển lời khẩn cầu của dân làng lên Ơi Adai cũng như ngược lại. Mọi người nhìn vào ông. Mọi người nghe lời ông. “Nghe” ở đây không phải là nghe những lời ông nói, mà nghe Ơi Adai nói qua ông, ông chỉ là người phát ngôn của Ơi Adai mà thôi. Hãy thử tưởng tượng hàng trăm ngàn người Jrai sống theo thiết chế thần quyền đặc sắc này hằng nghìn năm, không cần nhà tù, cảnh sát, quân đội mà vẫn ổn định vững bền thì đủ biết Pơtao ảnh hưởng như thế nào[5]. Một xã hội quyền lực – phi quyền lực. Sức mạnh của ông là ở đây. Quyền bính của ông là ở đây.
Chính vì ảnh hưởng to lớn của Pơtao ở Tây Nguyên, mà người Kinh, người Pháp, người Mỹ đều muốn nắm lấy Pơtao để làm chủ Tây Nguyên. Vì thế, họ phong tước, ban tặng phẩm, đối xử với Pơtao như một vị vua. Người Pháp dịch Pơtao là Roi, người Mỹ dịch là King, còn người Kinh thì dịch là Thủy Xá, Hỏa Xá. Thật ra, chẳng có cách dịch nào đúng và cũng chẳng có thế lực bên ngoài nào nắm được Pơtao. Đối với người Jrai, Pơtao không hề là vua, mà là một người do dân bầu lên dựa vào những dấu chỉ tâm linh. Đó có thể là một người nghèo nhất làng và chẳng có quyền lợi đặc biệt gì khác mọi người. Do đó, Pơtao chỉ có quyền trên dân khi đề cập tới thần linh. Cho dù ông có nhận các chức tước này nọ thì người Jrai cũng nhìn ông như không có gì. Các thế lực ngoại lai tới, dùng não trạng thế quyền của mình để đối xử với một xã hội thần quyền mà họ không hề hay biết. Nhưng điều đặc biệt thú vị chính là các vị Pơtao cũng a dua theo, cũng nhận quà tặng và triều cống lại y như một chư hầu, hòng làm cho các thế lực bên ngoài tưởng rằng đã thu phục được dân tộc Jrai, đã nắm được Tây Nguyên trong tay. Thực chất, họ chỉ nắm được cái bóng của người Jrai mà cứ huênh hoang ra vẻ ta đây. Còn người Jrai thì im lặng, không phản bác, nhưng cười thầm trong bụng, và kín đáo giữ lấy sự tự do nội tâm của mình[6]. Thật là một dân tộc khôn ngoan!
Những điều bí ẩn về kết cấu xã hội Jrai cộng với vô số huyền thoại càng làm cho tôi tò mò muốn biết Ayunpa như thế nào. Ngay chiều hôm đó, tôi dong bộ ra thị xã. Trung tâm Ayunpa bắt đầu từ bến xe khách và kết thúc là doanh trại quân đội. Thị xã nhỏ nhưng nhiều quán cafe, có một cái sân bay được trưng dụng làm sân phơi thóc. Nhà nước cho xây một công viên văn hóa to đùng nhưng chỉ thấy cỏ mọc um tùm và chó mèo lai vãng. Ở Ayunpa bạn chẳng thể nào lạc đường được vì chỉ có một trục đường chính do quốc lộ 25 chạy qua mang tên Trần Hưng Đạo, mọi con đường khác đều đổ về đây. Trên con đường này có tất cả những cơ quan nhà nước, ngân hàng, trường học, nhà thờ Phú Bổn. Nếu đi ngang qua Ayunpa trên một chiếc xe khách, người ta sẽ không thấy dấu vết ngự trị của người Jrai, vì nhà cửa, trường học, đường xá… đều theo lối sống của người Kinh, nhìn chán ngắt. Tôi muốn tìm một cái gì đó thuộc về Jrai, nên những buổi chiều sau tôi đạp xe ra bờ sông Ayunpa. Từ đây phóng tầm mắt ra xa là cánh đồng lúa chín vàng đang mùa gặt hái, giữa đồng lúa bằng phẳng nhô lên một ngọn núi lẻ loi, người dân gọi đó là Čǔ Mỗ (tức là núi Vợ). Tôi ngồi trên bờ đê nhìn xuống cánh đồng, hương lúa thoảng bay. Mặt trời sắp tàn đỏ thắm một khoảng không. Gió trong lành, mát mẻ. Vài chú chim sẻ tung tăng bay lượn. Khung cảnh làng quê êm đềm khiến tôi nhớ nhà. Chỉ có điều, cánh đồng quê tôi mùa này không làm lúa. Ayunpa có một hệ thống thủy lợi dẫn từ Phú Thiện về dài chừng 20km, cho phép người dân làm một năm ba vụ, nhưng người Jrai chỉ làm hai vụ thôi, họ nói vụ thứ ba để cho đất nghỉ. Kiểu canh tác nhân ái này có nguồn gốc từ nền văn hóa thảo mộc, nghĩa là mượn tài nguyên của mẹ tự nhiên để xin cái ăn rồi trân trọng trả lại.
Nhìn bề ngoài, Ayunpa cũng bình thường như bao thị xã khác, nhưng người dân nơi đây chưa quên mùa hè đỏ lửa 1975. Quốc lộ 25 từ ngã ba Chư Sê về Tuy Hòa bây giờ, trước kia là đường số 7, là con đường kinh hoàng của chính quyền Sài Gòn tháo chạy khỏi Tây Nguyên. Đi qua khỏi Ayunpa chừng 10 cây số, sẽ thấy trước mặt một dãy núi dài, người Jrai gọi đó là Čư Ă, tức là núi Quạ. Người dân giải thích tại sao lại gọi là núi Quạ như sau: “Khi Ban Mê thất thủ, cả Tây Nguyên chỉ còn một con đường thoát hiểm là đường số 7. Con đường này dẫn về Tuy Hòa, từ đây người ta sẽ chạy ra Nha Trang, nhưng con đường này lại vô cùng hiểm trở. Biết thế mà người ta cứ chạy. Nhiều người chạy đến đèo Tôna thì bị phục kích. Người chết nhiều đến mức nghẽn cả dòng chảy sông Pa. Quạ thấy xác chết tới ăn đen cả bầu trời, đậu đầy núi. Vì vậy người ta mới gọi núi này là núi Quạ”. Hôm về Krông Pa, tôi nhìn lên núi không thấy con quạ nào nhưng chỉ tưởng tượng đến tháng ngày chiến tranh đó đã không khỏi rùng mình. Người dân nơi đây đã phải trả một cái giá quá đắt cho nền độc lập, để rồi hơn 30 năm sau, họ mất luôn quyền tự chủ dân tộc.
Ở đây và cả những vùng khác ở Gia Lai, người Kinh sống xen kẽ với người Jrai và làm chủ hầu hết mặt tiền những con đường, những khu đất màu mỡ. Nói tóm lại là chỗ nào “ngon” thì người Kinh “gắp” hết vì người Kinh khôn (lỏi) hơn. Người Jrai gọi người Kinh là người Yuăn, và từ Yuăn bây giờ mang nghĩa không tốt, xấu. Điều này hoàn toàn ngược lại với truyền thống văn hóa của người Jrai. Với người Jrai trước kia, khi có một ngôi nhà mới, họ đọc lời cầu khẩn trong đó có đoạn: “Cho khách Kur (Cao Miên) lên đến gãy thang, khách Yuăn (người Kinh) lên đến sập thềm, người tứ xứ đến đầy nhà”. Điều đó có nghĩa được đón người Yuan lên nhà là một vinh dự, một nguồn phúc cho cả gia đình người Thượng [7]. Thế tại sao bây giờ cái nhìn của người Jrai về người Yuăn lại xoay 180 độ như vậy? Một phụ nữ Jrai kể cho tôi nghe về những tháng ngày sau giải phóng, khi người Kinh ồ ạt di cư tới đây, họ xem người bản địa như một giống người mọi rợ đáng khinh đến mức, ngay giữa chợ, một người Kinh có thể tát người Jrai chỉ vì người Jrai này không bán cho họ thứ họ muốn. Bây giờ sự kỳ thị đã giảm nhiều nhưng sự phân biệt vẫn còn đó. Bước vào một tiệm cơm, nếu để ý một chút, bạn có thể thấy thái độ của người bán hàng đối với người Kinh và người Jrai khác hẳn. Họ luôn tỏ ra vồn vã chiều lòng người Kinh nhưng lại thờ ơ lạnh nhạt với người Jrai.
Người Jrai đã từng là chủ vùng đất này (tên Gia Lai đọc từ chữ “Jrai” mà ra). Tổ tiên họ đã sống và đã chết ở đây. Họ có cách sống và văn hóa của riêng họ. Không ai cảm thấy lạc lõng trong buôn làng của mình. Mọi người gắn kết với nhau bằng truyền thống tâm linh vô cùng sâu sắc. Trên đầu họ là bầu trời tự do. Dưới chân họ là đất rừng linh thiêng. Họ đã sống như thế biết bao thế hệ. Mọi chuyện cứ diễn ra như thuở ban đầu cho tới khi người Kinh tới.
Người Kinh tới, đặt ra những chủ trương ngu ngốc và vơ vét mọi thứ về mình vì họ có quyền lực trong tay. Số liệu thống kê năm 2008 cho thấy ở Gia Lai, người Kinh chiếm 52% dân số, trong khi người Jrai chỉ còn 33,5%[8]. Người Kinh nghiễm nhiên trở thành ông chủ trên mảnh đất của người Jrai, làm giàu trên sự lạc hậu của người bản địa nhưng không lúc nào ngớt lời chê bai. Những người Jrai hiền lành và thật thà nhanh chóng trở nên trắng tay và bị kinh hóa. Hãy thử tưởng tượng một người “khách” đến nhà mình, ăn uống no say ở nhà mình, rồi chiếm đoạt toàn bộ tài sản của mình, sau đó đá đít đuổi mình ra khỏi nhà. Một người như thế thì có đáng bị gọi là “ăn cháo đá bát”, “vong ân bội nghĩa” không?
Nhà Ami H’siu thuộc Buôn Ama Djong, trước đây có tiếng là đạo đức và truyền thống. Khi nhắc đến một buôn thì có nghĩa dân cư trong đó hầu hết là người Jrai, sống theo kiểu của người Jrai. Nhưng bây giờ đi vào Buôn Ama Djong, tôi chỉ thấy vài ba căn nhà dài. Người ta đã thay nhà sàn bằng nhà xây, vật dụng trong nhà cũng là của người Kinh. Giới trẻ thay cái váy truyền thống bằng quần Jean bó sát. Ở một góc của buôn, đàn ông tụ tập gầy sòng bạc, uống rượu rồi chửi tục… Người trong buôn nói: “Người Jrai bây giờ đã biết học theo người Kinh rồi. Con gái Jrai đã biết làm đĩ còn con trai đã biết ăn cắp rồi”. Tôi nghe mà sượng sùng không biết giấu mặt đi đâu. Vừa xót xa cho họ và tủi hổ cho mình. Buôn Ama Djong đã bị lai căng nhanh hơn những buôn khác vì nằm ngay trung tâm thị xã. Ngặt nỗi, người Jrai nếu bị tha hóa thì lại bị nặng hơn cả người Kinh. Nó không thể cưỡng lại sự hấp dẫn của cuộc sống hiện đại, cũng như không thể cưỡng lại những chủ trương, chính sách của nhà nước.
Trong bài viết có tên “Phát triển bền vững ở Tây Nguyên”, nhà văn Nguyên Ngọc chỉ rõ: “Ngộ nhận lớn nhất và tai hại nhất khi lập chủ trương, chính sách với Tây Nguyên là ta hầu như hoàn toàn không biết, không hề quan tâm đến quyền sở truyền thống ở Tây Nguyên đối với đất và rừng. Ta đã ngộ nhận đất, rừng Tây Nguyên là vô chủ, là đất giữa trời chẳng của ai hết. Ta đã hành động ở Tây Nguyên như trên một vùng đất không có người, lấy đất và rừng từ ngàn đời nay đã “được Yang giao cho làng”, đem giao cho các đơn vị làm kinh tế mới được lập lên và đưa hàng triệu người từ nơi khác đến, một cách hết sức “vô tư”. Đây là điều chưa từng diễn ra trong suốt lịch sử lâu dài ở Tây Nguyên từ xưa tới nay”. “Ta” ở đây có nghĩa là nhà nước, vì chỉ có nhà nước mới “sáng suốt” làm những việc như vậy, và đây cũng là lí do khiến người tây nguyên đi biểu tình vào năm 2001.
Và hậu quả tiếp theo của việc mất đất và rừng là tổ chức làng bị tan vỡ, tế bào cơ bản nhất của Tây Nguyên bị bứng đi, thêm vào đó, cơ cấu dân cư bị đảo lộn mạnh và đột ngột khiến người bản địa trở thành lang bạt ngay trên chính quê hương ngàn đời của mình. Tất cả những điều này đưa đến việc đổ vỡ về văn hóa. Nói đến người Tây Nguyên, người ta nghĩ ngay tới nhà rông, nhà dài, cồng chiêng, các nhạc cụ độc đáo, các lễ hội… không sai, nhưng đó là những biểu hiện ra bên ngoài, trên bề mặt của văn hóa, nếu tách những cái đó ra khỏi làng và rừng thì tất cả chỉ còn là những cái xác không hồn. Mà ai cũng biết văn hóa là hồn chứ không phải xác. Cho nên Unesco rất tinh ý khi công nhận “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” là di sản văn hóa chứ không phải cồng chiêng. Cái làm cho cồng chiêng trở thành di sản chính là không gian, là rừng, là làng. Chỉ khi nào cồng chiêng được chơi trong một không gian như thế thì cồng chiêng mới thực sự có hồn[9]. Nhưng bây giờ tìm đâu ra được một môi trường toàn linh cho người bản địa khi rừng không còn. Có phải vì thế mà sau khi Pơtao Apui mất vào năm 1999, thì chẳng còn vị Pơtao nào kế tục nữa. Tôi vẫn nhớ câu nói: “Sự ngu dốt cộng với lòng nhiệt tình sẽ trở thành kẻ phá hoại”. Nhìn lại, sao đúng với nơi đây quá.
Tôi đã tới nơi cần tới sau nhiều ngày mơ tưởng về thủ phủ của người Jrai, về vùng đất của Pơtao Apui, về những căn nhà sàn đêm đêm bập bùng ánh lửa kể akhan, về một dân tộc có đời sống tâm linh vô cùng sâu sắc, nhưng sao cảm giác trong tôi thật lạ, có gì đó như là tan vỡ. Jrai ơi!
Amai H’ Blan
VRNs (13.07.2012) – Gia Lai
Ảnh: Trung Thu
[1] Nguyên Ngọc, http://www.diendan.org, 2008. Phát triển bền vững ở Tây Nguyên, chương I.
[2] Lm GioanKim Nguyễn Hoàng Sơn, http://www.emty.org, 2008. Sơ lược tiểu sử Trung tâm Truyền giáo Cheo Reo.
[3] Thanh Thảo, http://ayunpa.net, 2011. Ayunpa mùa xuân này.
[4] Lm Giuse Trần Sĩ Tín, Pleily, 2009. Hạt giống Kitô trong đất Jrai, tr.170-176.
[5] Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Cheo Reo, 1972. Nhóm sứ đồ Pleily. Lm Vương Đình Tài cho biết, có khoảng 150.000 người Jrai.
[6] Jacques Dournes, Flammarion, 1977. Pơtao, une théorie du pouvoir chez les Indochinois Jơrai.
[7] Lm Giuse Trần Sĩ Tín, sđd, tr.325.
[8] Cổng thông tin điện tử Gia Lai, http://www.gialai.gov.vn, 2008. Vị trí địa lý – địa danh và địa giới hành chính.
[9] Nguyên Ngọc, sđd.
______________________________________________________
Học ăn, học nói (3)
Ami H’siu hỏi tôi:
- Con muốn học cái gì về người Jrai?
- Ami là thầy con. Ami dạy gì con học nấy, miễn sao vô làng con sống được với người ta thì thôi.
- Được rồi. Muốn sống cần phải ăn. Con học ăn trước nhé.
Ami H’siu dạy tôi học ăn trước tiên không phải là không có lí do. Người Jrai vốn nổi tiếng về những món lạ mà (tất nhiên là theo cái nhìn của người Kinh). Nếu không ăn được món ăn của người ta thì còn nói gì tới chuyện dạy con cái họ. Tôi là người rất thích những gì mới lạ, nên không chỉ học ăn, tôi còn xin ami H’siu bày cách nấu những món ăn đó.
Bài học đầu tiên ami H’siu dạy tôi là xào lá mì. Món ăn này phổ biến đến mức người Jrai tự nhận rằng sinh ra đã có lá mì trong miệng. Phía sau nhà có một vườn rau, ami dẫn tôi ra đó và chỉ cho tôi cách phân biệt hai loại lá mì. Loại lá mì màu trắng và màu đỏ ăn được, thường không có củ, vả lại rất dễ trồng, nên người dân thường trồng quanh nhà như một loại rau. Loại lá mì màu xanh là mì cao sản, trồng để lấy củ bán, không ăn được vì có thể làm người ta say. Trước khi xào, người Jrai thường vò hoặc giã nát lá mì. Nếu đám tiệc đông người thì nên giã vì vò không nổi. Còn trong gia đình ăn thì nên vò vì vò ăn ngon hơn. Người ta có thể xào lá mì với cá khô, cá hấp, thịt heo hoặc chỉ với dầu ăn, nhưng đúng bài thì phải có thêm vài tép xả, bông đu đủ đực (ăn lúc đầu đắng, lúc sau ngọt), cà rừng (một loại cà nhỏ như đầu ngón tay) và đặc biệt không thể thiếu ớt, mà phải dùng ớt xanh của người Jrai mới ngon. Khi nấu nên mở nắp cho lá mì có màu xanh đẹp. Xào đến khi nào khô đáy nồi là được. Lúc bày ra ăn, thêm vài lá ế (một loại lá gia vị của người Jrai có mùi như hương nhu) cho thơm. Về sau, mỗi lần ra thăm ami H’siu, tôi đều được “ưu tiên” cho xào lá mì.
Cũng với lá mì ấy, ami H’siu cho tôi biết người Jrai có thể chế biến thêm món canh lá mì hoặc món aňam te. Aňam te nấu hơi khác một
chút là sau khi xào lá mì chín, người ta cho nước bột gạo vào, vừa khuấy vừa đổ cho tới khi bột gạo chín và sệt lại như cháo. Trước đó người ta phải ngâm gạo và giã nó trong một cái cối, rồi lọc lấy nước. Aňam te gần giống với aňam tbung (tơbung), nhưng khác ở chỗ aňam te được dùng như một món ăn hằng ngày, còn aňam tbung chỉ ăn vào những dịp ma chay, cưới hỏi, lễ giỗ hoặc nhà mới. Aňam tbung cũng nấu bằng bột gạo nhưng thường nấu với lòng heo, lòng bò hoặc thịt.
Tôi chẳng lạ gì lá mì, vì ở nhà bố tôi hay bẻ lá mì cho cá ăn, nhưng món ăn chế biến từ lá mì tôi chưa thử bao giờ, thật ra lá mì ăn ngon hơn tôi tưởng rất nhiều. Lúc mới về Krông Pa ở, tôi muốn xào lá mì cho cha Gioan ăn mà nhà chẳng có, bèn đi xin trong làng. Người Jrai thấy tôi đi xin lá mì họ thích lắm, họ bẻ cho tôi một ôm to ăn mấy ngày không hết. Cũng từ đấy họ cởi mở và gần gũi tôi hơn. Tôi nhận thấy là chỉ khi nào tôi ăn như họ, uống như họ, sống như họ thì tự nhiên họ đến với tôi. Cũng qua món lá mì xào, ami H’siu dạy tôi chữ Jrai đầu tiên, hla plum, tức là lá mì. Đúng là lối học qua đường bao tử in sâu vào trí nhớ tôi hơn vì mãi sau này tôi vẫn còn nhớ những chữ liên quan tới món ăn.
Trong khi ami H’siu xào lá mì thì ama H’siu um cá, người Jrai gọi là kop akan. Món ăn này mấy ông bàn nhậu mê tít, nhưng hôm nay ama H’siu um cá không phải để nhậu mà để cho tôi biết thêm một chút về văn hóa ẩm thực của người Jrai (rồi sau đó nhậu). Nhà ami H’siu nuôi heo, cứ chiều đến là bếp nấu cám heo đỏ lửa, rực than hồng, rất thích hợp để um cá. Ama H’siu lấy một tấm lá chuối, hơ qua lửa cho lá chuối mền dễ gói, đặt vào đó những con cá đá nhỏ nhỏ, thêm một chút muối ớt, lá ế, bột ngọt, kiến vàng, cột chặt lại, rồi vùi xuống đống than hồng, chừng một tiếng sau lôi ra, lột bỏ lớp lá chuối cháy xém đi, sẽ cho ta món cá um thơm ngon tuyệt vời. Món này gần như món cá lóc nướng trui của miền Tây nhưng có mùi vị Jrai rất lạ.
Bữa cơm sắp bắt đầu thì ami H’hiam (chị của ami H’siu) và chị H’sophia (con của ami H’hiam) nhà bên cạnh qua. Chị H’sophia cầm theo một chén muối kiến vàng (hdom sao) và giới thiệu đây là món đặc sản của người Jrai mà bất cứ ai có dịp lên đây cũng không nên bỏ lỡ. Tôi nếm một chút, vừa hăng vừa cay vừa chua chua, rất khó ăn. Nhưng đã ăn được rồi thì ghiền như điếu đổ. Chỉ cần một chén muối kiến là có thể ăn thủng nồi trôi niêu. Loại kiến này thường làm tổ trên cây, muốn bắt chúng, người ta dùng một cái thau đồng đã để ngoài nắng nóng, đập tổ kiến cho kiến rơi vào thau, thau nóng, chúng bị bỏng chân và không thể bò đi được. Người ta cũng dùng thau nước đập kiến xuống nhưng cách này kiến vẫn còn sống, rồi bò đi đốt lung tung nên ít người sử dụng. Bắt được kiến rồi, người ta giã kiến với một chút muối, bột ngọt và ớt. Thế là có món muối kiến ngon lành. Những người muốn làm muối kiến để lâu sẽ rang kiến khô một chút và phải giã ớt khô để không bị hư. Người ta cũng cho thêm cỏ thơm (một loại cỏ dại như cỏ gấu, chỉ mọc vào mùa mưa) vào muối kiến, hoặc thêm củ nến (loại củ trắng nhỏ như đầu đũa, có vị cay nồng như củ kiệu), hoặc thêm ít gừng. Tất cả những loại muối kiến trên đều được ưu thích, đến nỗi những người Jrai xa quê không nhắn người thân gửi gì ngoài món muối kiến. Đây là loại kiến mà ở nhà, mỗi lần hái café ba tôi phải xịt thuốc để xua đuổi chúng thì mới hái café nổi. Thật không ngờ ở đây lại trở thành món ăn đặc biệt của người Jrai. Thế là bữa cơm đầu tiên của tôi trên đất Ayunpa gồm có lá mì xào, cá um và muối kiến vàng. Sau này tôi mới biết đây toàn là những món ăn truyền thống chỉ để đãi khách quý.
Vài ngày sau, tôi phát hiện ra món khoái khẩu của người Jrai chính là cà xóc (bôh sôh). Chỉ cần nhắc tới cà xóc là người ta đã chảy nước miếng rồi. Người Jrai có câu, ăn cà xóc đại bác bắn cũng không chạy, đủ để biết là món ăn này hấp dẫn đến mức nào. Nhưng món cà xóc lại làm rất đơn giản với những nguyên liệu dễ dàng tìm thấy. Người ta chỉ cần một trái đu đủ hường, băm sợi nhỏ, trộn chung với chút muối, bột ngọt, kiến vàng và ớt giã nhuyễn, thế là đã có một món ăn đã đời. Người ta có thể dùng dưa leo, bí đao, bầu, đậu đũa, đậu ván thay cho đu đủ cũng được. Món ăn này có thể ăn mọi nơi mọi lúc bất kể giờ giấc và ăn mình nó vẫn ngon như thường. Người ta vừa ăn cà xóc vừa hít hà vì cay, nước mắt nước mũi chảy ra như thế mới ngon.
Tôi vẫn nghĩ người Huế ăn cay không ai bằng, nhưng khi tới đây thì tôi thấy người Huế phải gọi người Jrai là sư phụ ăn ớt. Người Jrai ăn cơm không có ớt ăn không được. Luôn luôn có một chén muối ớt trong bữa ăn. Và để cho tôi biết người Jrai ăn ớt cay như thế nào, sáng hôm sau ami H’siu dẫn tôi đi ăn bún riêu. Tôi ăn cay không giỏi, nhưng không đến nỗi quá tệ, vậy mà hôm đó là lần cay kinh khủng nhất trong đời tôi. Vừa nhấp miếng bún đầu tiên, tôi đã thấy đầu lưỡi tê cứng, đầu óc quay cuồng như bị trúng gió, mắt mũi tối sầm lại, miệng bỏng rát và tôi không thể nào nuốt nổi miếng thứ hai. Tôi phải đổi một tô khác không có ớt mới ăn được. Vậy mà ami H’siu vẫn ăn bình thường, lại còn cho thêm ớt vào tô bún. Ami H’siu chỉ là một trong số rất nhiều người Jrai thích ăn ớt mà sau này tôi gặp. Tôi còn bị “trúng đạn” một lần nữa ở Krông Pa. Hôm đó nhà có khách, tôi xào lá mì và không quên bỏ ớt Jrai (có ớt mới ngon). Đó là một loại ớt nhỏ như đầu đũa, màu xanh, cay hơn cả ớt chỉ thiên của người Kinh. Nó cay đến mức người Jrai nói là “bay lên trời” thì đủ biết rồi đấy. Lá mì màu xanh xào với ớt cũng màu xanh, cho nên rất khó phân biệt. Tôi cố để ý mà vẫn cắn nhầm một trái. Cắn vào là hai mắt đứng im liền. Cả bữa cơm hôm đó, tôi không ăn thêm được miếng nào nữa vì miệng bỏng rát như đỉa phải vôi. Sở dĩ người Jrai ăn ớt nhiều như vậy là vì trước đây, khi còn sống giữa rừng núi khắc nghiệt, họ cần ớt để chống lại bệnh sốt rét, cũng là để khử mùi tanh của các món ăn sống. Họ vẫn giữ thói quen của tổ tiên truyền lại cho đến tận bây giờ, ngay cả khi họ đã sống giữa một môi trường hiện đại hơn xưa rất nhiều.
Trước nhà ami H’siu có cắm một cái bảng ghi “Bán rượu ghè” và tôi may mắn được ở trong nhà một người làm rượu ghè có tiếng ở xứ Cheo Reo. Tối hôm sau sinh nhật ama H’Hiam, ami H’siu xách qua một ghè rượu. Vì tôi là khách, nên được mời uống trước tiên. Mỗi người uống một kang xấp xỉ gần một xị. Tôi đã uống rượu ghè nhiều lần khi ở với người Bana trên Kontum, nhưng phải công nhận rượu ghè của ami H’siu rất ngon, đến mức sau kang thứ hai, tôi say bí tỉ. Có điều, rượu cần làm bằng men đồng bào, loại men làm từ lá cây rừng to như bàn tay, nên có uống say đến mấy, khi tỉnh cũng không nhức đầu như rượu đế của người Kinh.
Người Kinh nhìn vào ẩm thực của người Jrai chê bai, gớm ghiếc. Họ đâu biết rằng đằng sau những món ăn ấy là quy tắc ứng xử rất nhân bản. Ngay cách chế biến thức ăn đã là nét văn hóa đặc sắc rồi. Anh không được phép phê phán người khác khi anh là một người ngoài. Người Jrai có câu: “Miếng to miếng nhỏ gì cũng nhớ tới nhau”. Tôi không hiểu hết ý câu này cho tới khi về Krông Pa, chứng kiến ba đứa bé chia nhau một cục kẹo. Ngay từ nhỏ, những đứa bé đã được dạy về tính cộng đồng. Nếu chỉ có một củ khoai mà có tới 10 đứa bé, thì tụi nhỏ cũng chia củ khoai làm 10 phần bằng nhau. Còn nếu đứa nào ích kỷ không chia, thì chín đứa kia đứng nhìn cho tới khi đứa bé nọ vất củ khoai đi thì thôi. Nhỏ đã vậy, lớn lên người Jrai ăn miếng gì cũng nhớ tới nhau. Một gia đình trong làng lên nhà mới đốt bò, thì con bò đó sẽ được chia đều cho tất cả mọi người trong làng, kể cả đứa bé còn bú mẹ cũng có phần. Người Jrai nghèo thật, nhưng khi ăn lại rất nghĩa tình. Trong lúc túng thiếu mà vẫn sẻ chia mới là quý. Cho nên, một người Jrai lỡ đường, có thể vào nhà một người Jrai khác xin tá túc và ăn cơm tự nhiên như ở nhà mình. Miếng ăn không còn là miếng tồi tàn như cách nói của người Kinh nữa, mà trở thành miếng ăn ân tình, nó làm cho người gần người và yêu thương nhau hơn. Đó chẳng phải là ý nghĩa cao quý nhất khi chúng ta có được của ăn hay sao? Tiếc thay, cuộc sống hiện đại đã làm cho người Jrai bị cuốn theo chủ nghĩa cá nhân. Mất mát lớn nhất với họ chính là cộng đồng buôn làng không còn cố kết như xưa.
Cứ đến bữa ăn, ami H’siu lại tranh thủ dạy cho tôi thêm vài từ Jrai. Huă asơi, nghĩa là ăn cơm. Còn ăn những thứ khác thì gọi là bong (ăn). Uống một ngụm nước gọi là ňum ia. Để có hiệu quả, ami H’siu viết những chữ Jrai thường dùng lên bìa hộp thuốc lá, đưa cho tôi học. Dù sao thì học có chữ viết vẫn dễ nhớ hơn. Nhưng không phải người Jrai nào cũng biết viết tiếng của dân tộc mình, nhất là giới trẻ. Khi về Krông Pa, tôi nhờ mấy bạn trẻ viết dùm chữ ghe čih (bút bi), nhưng không ai viết đúng. Hỏi ra mới biết, trẻ em Jrai không được học tiếng của mình ở trường. Các em biết đọc chữ Jrai là nhờ đi nhà thờ. Ai không đi nhà thờ thì cũng không biết đọc biết viết. May cho tôi là ami H’siu rất giỏi tiếng Kinh và tiếng Jrai cũng dễ học nên sau vài ngày, tôi có thể bập bẹ nói chuyện với người khác. Cứ nói đi, tự khắc cái miệng mềm ra và nói được thôi. Nếu sai thì người ta sửa lại. Trong tiếng Jrai, khó đọc nhất là những chữ có âm “r”, “l” và “h” đằng sau. Ban đầu tôi không biết cứ phăng đại đại, cho đến khi tôi đi dạy học. Tôi hỏi bọn trẻ “mệt” đọc thế nào, bọn trẻ thi nhau đọc “dleh”. Tôi nghe xong lặp lại “dle” (không có nghĩa gì hết). Tụi nhỏ không chịu, bắt đọc lại. Tôi hỏi viết thế nào. Chẳng ai biết. Tôi cố gắng đọc to thì tụi nhỏ lại gào to hơn. Chừng 15 phút sau, tôi khàn giọng mà vẫn không đọc trúng. Về nhà tra từ điển mới biết là mình thiếu âm “h”. Học với con trẻ có cái lợi rất lớn là nó chẳng nể nang gì hết, cứ chỉnh cho tới khi nào đúng thì thôi. Ai đã từng học một ngôn ngữ khác đều có những kinh nghiệm cười ra nước mắt, nhưng đó chính là con đường dẫn vào tâm hồn một dân tộc khác.
Khi vào làng, người Jrai nghe tôi nói tiếng của họ, họ vui mừng đến bắt tay ngay vì họ cảm thấy được tôn trọng. Cho nên, nếu muốn chiếm cảm tình của người Jrai, hãy nói thứ ngôn ngữ của họ. Người ta chỉ có thể giãi bày chính xác tâm sự bằng tiếng mẹ đẻ của mình mà thôi. Tôi thấy mình như một đứa bé, phải học ăn học nói lại từ đầu, và quả thật, đứng trước những người Jrai, tôi chỉ là một đứa con nít.
Amai H’ Blan
VRNs (14.07.2012) – Gia Lai
______________________________________________________
Sinh ra để dành cho người Jrai (4)
Từ nhà ami H’siu nhìn xéo qua phía bên kia đường là Trung tâm Truyền giáo Čeo Reo TơLuĭ. Gọi là Trung tâm vì từ đây, các cha sẽ tỏa đi coi sóc con chiên ở 13 giáo điểm trong vòng bán kính 45km dọc theo quốc lộ 25. Chữ “Trung tâm” dễ gợi lên cho người ta cảm giác về một nơi to lớn, đồ sộ. Điều đó có thể đúng ở những vùng giàu có. Nhưng ở đây, nhà thờ của trung tâm chỉ là bốn mái vòm ghép lại khiến người khác không khỏi nghĩ đến một bãi giữ xe ở Sài Gòn, bốn phía trống không, gió mưa tha hồ đùa giỡn. Bàn thờ dâng lễ trang trí rất đơn sơ, góc trái bàn thờ có đặt cột đâm trâu như một biểu tượng tế lễ. Xung quanh nhà thờ là hai khu nhà sàn nội trú cũ kỹ bị mối mọt dành cho các cha và các em đệ tử ở.
Cách đây hơn nửa thế kỷ, trung tâm này là điểm truyền giáo đầu tiên của vùng Cheo Reo, nơi gắn liền với tên tuổi của một vị thừa sai người Pháp, người đã dành tình yêu cả đời mình cho những người Thượng. Giới trí thức biết đến ngài như một nhà Tây Nguyên học say mê nhất, một nhà dân tộc học, một nhà nhân chủng học, một nhà xã hội học, một nhà văn hóa học, một nhà bác học… Nhưng người Jrai không biết đến những khái niệm cao siêu đó, họ chỉ biết ngài là một vị linh mục nhiệt thành, một vị thừa sai đích thực, và họ vẫn gọi ngài bằng cái tên thân thương trìu mến, Cha Dournes.
Cha Jacques Dournes đóng khố ngồi làm việc. Ảnh lưu tại TT Cheoreo Tơlúi
Người ta có thể dễ dàng tìm thấy những thông tin về cha Jacques Dournes trên mạng internet, nhưng người ta không thể nào biết được tình cảm yêu quý của những người Jrai nơi đây dành cho ngài. Tất cả những người Jrai tôi tiếp xúc, từ người già đến con nít, không ít thì nhiều, đều biết về cha Dournes, và hầu như ai cũng biết chuyện cái đuôi khố của cha khi gặp Đức Giám mục Paul Seitz. Trong cuốn sách “Hạt giống Kitô trong đất Jrai” cha Giuse Trần Sĩ Tín có kể lại: “Việc đóng khố không được Giám mục tán thành lắm. Nhưng khi không có Giám mục ở đó thì ngài vẫn đóng khố. Cho nên mới có một lần kia, đang thoải mái đóng khố, thì bỗng anh đồ đệ ama Sim hớt hải chạy vào báo động: “Giám mục tới!”. Jacques Dournes vội xỏ quần, mặc áo ra đón Giám mục. Ngài đi trước mời Giám mục lên thang vào nhà. Báo hại Giám Mục đi đàng sau phát hiện ra cái đuôi khố của Jacques Dournes giật giật mà rằng: “Cái gì thế này?”. Kể ra chuyện này để thấy rằng cha Dournes đã hòa nhập với người dân triệt để như thế nào. Bây giờ người Jrai không còn mặc khố nên các vị thừa sai hiện tại dù có dấn thân hết mực thì cũng không cần phải đóng khố như xưa nữa.
Tôi đến trung tâm vào một buổi chiều khi giáo đường vắng bóng con chiên, ráng chiều hắt lên mái tôn ánh vàng rực rỡ. Khoảng sân trước nhà thờ trồng đầy dừa và cây bàng, cứ mỗi lần gió thổi qua, lá cây lại reo lên hí hửng. Đâu đó, chiếc chuông gió tre xôn xao như tiếng đàn tơrưng vọng lại. Không gian im ắng, thâm trầm. Ai bước vào trung tâm cũng thấy bên phải nhà thờ một ngôi nhà sàn không có cầu thang, vách lồ ô, mái lợp tranh, đứng tách biệt một mình, đó chính là ngôi nhà tưởng niệm cha Jacques Dournes đang được tu sửa nửa chừng… rồi dừng lại tới bây giờ. Trong ngôi nhà sàn, người ta còn giữ những vật dụng của cha Dournes, một ghè rượu sứt mẻ, vài cái chén sứ cũ, cái cuốc con con, cái gùi nho nhỏ, bức tượng gỗ mẹ bồng con chính tay cha khắc, cây thánh giá bằng tre và nhiều thứ linh tinh khác. Xà ngang nhà có khắc dòng chữ: 01.08.1955. Đó là ngày đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời thừa sai của ngài.
“Hôm ấy là ngày 1 tháng 8 năm 1955, vào lúc 6 giờ chiều. Màu xám xịt của khung trời ngột ngạt gây nên cảnh não nề cho vùng Cheo Reo, khi chiếc xe của Đức Giám mục chở theo một vị thừa sai đến nhiệm sở mới. Ở đây không ai chờ đợi vị thừa sai này; thậm chí, không ai ưa ngài. Cho đến lúc này, tin mừng chưa hề được rao giảng cho cư dân vùng ấy, vì họ từ chối. Nhưng Giám mục lại muốn rao giảng tin mừng cho họ. Ngài để vị thừa sai cùng với rương hòm trên mảnh đất khô cằn ngay trước những ngôi nhà sàn đóng kín.”
Dòng chữ khắc ngày cha J. Dournes đến Ayunpa, 01.08.1955
“Cụ bà của làng trung thành với truyền thống hiếu khách của dân tộc du canh du cư trước kia. Đêm đến, không nên để người lạ ở ngoài, vì như vậy là bỏ họ cho cọp đang rình rập.
- Thôi, cho ông ấy vào đây đêm nay.
……..Và ở đây họ đã cho ngài ở tạm một đêm”
“Thực vậy, một nhà đã mở cửa cho tôi vào dù chỉ một đêm. Tôi leo lên thềm, còn họ thì mang hành lý cho tôi. Thế là tôi như một người bán khai giữa những người văn minh. Tôi không biết một từ Jrai nào, tôi không biết người nào và chẳng ai nói được tiếng của tôi!”
“Những người Jrai ấy sẽ biết về Chúa Giêsu chỉ qua những gì tôi nói với họ và qua tôi….Thử nghĩ xem trách nhiệm của vị thừa sai đầu tiên tới, mang đến cho dân tộc mới này hình ảnh về Thiên Chúa thật nặng nề kinh khủng làm sao? Đó là bức họa trên một bức phông còn mới mà người ta không thể sửa lại được. Giả như thái độ của tôi gây nên một sự mâu thuẫn hay một Kitô hữu nào đó để lại một gương mù gương xấu khi đi ngang qua, thì tác phẩm coi như hỏng, hết giá trị. Có thể đó là nỗi đau lớn nhất của vị thừa sai!”[1]
Đây là những dòng tâm sự tả lại giây phút đầu tiên cha đặt chân đến vùng đất này. Trong số nhiều sách cha viết về người Thượng, thì đây là cuốn duy nhất cha đề cập đến những cảm giác riêng tư của cha, nhưng điều này cũng chỉ rải rác trong vài trang đầu. Những thắc mắc về đời sống nội tâm, thao thức của cha luôn là câu hỏi với bất cứ ai muốn tìm hiểu về cha. Và chính cha đã luôn là câu hỏi ngược lại cho tất cả những vị thừa sai phục vụ trên Tây Nguyên này: “Đã dấn thân đủ chưa?”
Tôi may mắn được ở nhà ami H’siu, và càng may mắn hơn nữa khi bố của ami H’siu là Ơi Hiam, (tức là ông của Hiam) là một trong ba người đầu tiên được cha Dournes rửa tội. Nhà ơi Hiam ở giữa nhà hai người con gái là ami H’hiam và ami H’siu. Năm nay cụ đã xấp xỉ 90 tuổi rồi, cái tuổi ít người Jrai sống tới. Hằng ngày, cụ vẫn có thể tự chăm sóc cho mình và thường ngồi ở trước cửa nhà nhìn qua trung tâm, nơi có nhà của cha Dournes. Khi tôi nói: “Ơi kể cho con nghe về cha Dournes đi” thì mặt cụ se lại như người vừa bị chạm vào vết thương. Cụ im lặng hồi lâu rồi cuối cùng nói ngắt quãng bằng một thứ tiếng Kinh lơ lớ: “Đêm qua, tôi mơ thấy Dournes. Nó đi cầu thang lên nhà (vừa nói cụ vừa đưa tay chỉ qua căn nhà cũ của cha Dournes), nó gọi tôi lên cùng, tôi leo mãi mà không lên được”. Cụ gọi cha Dournes là “nó” vì hai người xít xoát bằng tuổi nhau, và còn vì hai người thân thiết với nhau như anh em ruột thịt. Chắc hẳn, sự ra đi của cha Dournes đã để lại một nỗi trống trải vô tận trong lòng cụ để đến nỗi, sau bao nhiêu năm cụ vẫn còn gặp cha Dournes trong những giấc mơ. Và rồi, cụ bắt đầu kể cho tôi nghe về cha Dournes.
“Dournes cũng trồng ớt, trồng cà rồi đem ra chợ ngồi bán như người Jrai, nhưng không ai dám mua hết. Người ta nói ông cha sao lại đi bán cà như thế. Nếu đưa cho tôi đi bán dùm thì họ mua”.
“Dournes không cho chúng tôi ngồi thế này đâu (cụ gù lưng xuống). Nó bắt ngồi thế này nè (cụ ngồi thẳng lưng lên)”
“Mấy bà trong làng cài mấy thứ của người Kinh lên đầu đi lễ chúa nhật, nó đuổi về không cho lễ. Nó bảo vậy không phải là người Jrai”
“Dournes giỏi và siêng năng lắm. Nó làm việc suốt để thâu akhan của người Jrai”
Những mẩu chuyện rời rạc của Ơi Hiam càng làm sinh động thêm về một con người đã gắn bó với người Thượng như máu thịt của mình, để rồi khi trở về Pháp, cha nhớ người Thượng quay quắt đến khủng hoảng trầm trọng. Cha đã đến với người Jrai không trong tư thế của một người đi truyền giáo, tức là đến thay thế tôn giáo tự nhiên của người Jrai bằng Kitô giáo, mà đến với tư cách một chứng tá tình yêu để chỉ cho họ thấy rằng, có một Đấng Cao Trọng luôn yêu thương họ.
Nhưng người Jrai làm sao có thể chấp nhận một ông tây mũi lõ, tóc vàng, da trắng, nói một thứ tiếng khác về những điều khác lạ. Cha không thể làm chứng khi cha chưa là một người như họ. Vì thế, “nếu không có chỗ cho người ngoại quốc, thì tôi phải thôi làm người ngoại quốc. Là người ngoại quốc ở ngưỡng cửa nhà sàn người Jrai, là người Kitô hữu duy nhất trong bán kính cả trăm cây số, đơn độc trong hiu quạnh … Tôi chỉ còn một cách là dấn mình sâu hơn vào đường hầm, đi sâu vào bên trong nhà sàn, nói bập bẹ như một đứa bé bắt chước bố mẹ làm người lớn và nói chuyện với họ”[2]
Thật vậy, cha đã cởi bỏ tất cả những gì của người ngoại quốc để trở nên một người Jrai thực sự. (Tất nhiên mắt mũi miệng thì đành chịu). Cha ăn mặc như họ, làm lụng như họ, nói năng như họ, sống như họ để hiểu họ trước đã. Muốn làm gì trên mảnh đất này mà không hiểu về người bản địa thì thật là sai lầm, nhất là khi cha đến để làm chứng về tình yêu. Nhưng “nếu phải hiểu để mà có thể yêu, thì lại phải yêu để mà có thể hiểu. Phải yêu cuộc sống gian khó và bình dị, phải yêu thiên nhiên trinh khôi và say mê vẻ đẹp của nó, phải yêu cái không khí đầm ấm của căn nhà sàn và hơi nóng tỏa ra từ bếp lửa của nó, phải yêu khu rừng ngô và đêm đầy trăng”[3]. Cũng từ tình yêu đó mà cha khám phá ra người Jrai đã được chuẩn bị để đón nhận Tin Mừng. Cha chỉ cho họ thấy Thiên Chúa trong cuộc sống của họ và dẫn họ đến với Thiên Chúa qua ngả đường văn hóa. Chính cha làm sáng tỏ điều mà gần nửa thế kỷ sau người ta gọi là rao giảng tin mừng có hội nhập văn hóa[4].
Đóng góp lớn nhất của cha Dournes chính là cha đã sưu tầm gần phần lớn các akhan, các biểu tượng, phương ngữ của người Jrai để đưa ra một cái nhìn toàn diện và chân xác nhất về sắc tộc này. Cha như tảng đá góc tường sẽ làm nền cho tất cả những viên đá khác để xây lên cộng đoàn Jrai. Ai nghiên cứu về Tây Nguyên mà không đi qua cửa ngõ Jacques Dournes thì mới đi lòng vòng mà thôi. Ngày nay, dấu ấn của cha vẫn còn thể hiện rõ nơi thánh lễ. Từ ngôn ngữ phụng vụ, đến lễ nghi, kể cả cách trang trí đều bàng bạc tinh thần Jacques Dournes. Lần đầu tiên dự lễ chúa nhật ở Ayunpa, tôi thật sự ngỡ ngàng về cách thức phụng vụ của người Jrai. Với họ, thánh lễ không chỉ là việc tưởng niệm cuộc khổ nạn và phục sinh của chúa Giêsu, mà còn là lễ hội, là một cuộc trình diễn văn hóa. Giáo dân đi lễ mặc y phục truyền thống rực rỡ, điều ngày thường không có dịp mặc. Ca đoàn hát trên nền nhạc cồng chiêng thánh thót, trong khi đó một nhóm thiếu nữ nhún nhảy những điệu suang nhịp nhàng. Đặc biệt, tiếng trống nổi lên giục giã càng làm cho người ta hồ hởi. Thánh lễ ngập tràn niềm vui nhưng không vì thế mà mất đi sự trang nghiêm. Tham dự một thánh lễ như thế này, bạn không thể nào… buồn ngủ được.
Tôi đứng trước ngôi nhà sàn nhỏ bé và đơn sơ của cha, lẩm cẩm nghĩ về ngày xưa, khi cha mới tới đây. Ngày ấy không có nhà cửa xung quanh như bây giờ, vùng này khi ấy còn hoang vu, cọp beo còn rình rập quanh làng, nhà cửa thưa thớt, dân tình đói khổ, khí hậu khắc nghiệt. Cha đã bỏ quê hương, xứ sở, gia đình, cha mẹ, anh em, bạn bè, cuộc sống tiện nghi và những tình cảm riêng tư của mình để đến đây. Đến với những người không hề muốn chào đón cha. Đến với những người bán khai thuộc về một thế giới khác, một thời đại khác. Làm sao cha có thể chịu được cuộc sống nơi đây? Những khi cô đơn giày xéo, bất đồng ngôn ngữ, khác biệt món ăn, những lúc ốm đau bệnh tật, khi mọi cố gắng chẳng thấy chút kết quả nào, lại còn chiến tranh bom đạn và thiếu thốn trăm bề. Nhưng cha đã ở đây suốt 15 năm, điều mà chưa một người thừa sai nào trước đó làm được. Tôi cảm tưởng như cha Dournes được sinh ra để dành cho người Jrai, cho người Tây Nguyên. Có điều gì cuốn hút cha khiến cha say mê như vậy? Và nếu người Jrai có sức hấp dẫn mãnh liệt như thế chắc hẳn người Jrai phải có cái gì đó rất đặc biệt? Điều đặc biệt đó không thuộc về lĩnh vực vật chất vì làm sao nơi đây có thể vượt qua nước Pháp văn minh. Vậy thì là cái gì nếu không phải là tinh thần, là tâm linh, là thế giới siêu nhiên vô cùng sâu sắc và bí nhiệm, khiến cha mê đắm. Tôi ngồi dưới nhà sàn nghĩ ngợi miên man, lòng đầy xúc động. Gió lại nổi lên từng chập. Tiếng chuông gió hòa vào tiếng lá xôn xao. Hôm nay là rằm, khi còn ở đây, trăng rằm cha làm gì?
Thánh lễ chúa nhật tại trung tâm truyền giáo Cheo Reo
Tiếc rằng cha không còn ở đây để chứng kiến ngày đoàn chiên Jrai từ khắp nơi trở về. Đoàn chiên do cha chăm bẵm, nay đã đông đảo rộng khắp. Ở nước Pháp xa xôi, cha có biết tin này hay không? Nhưng có hề gì vì cha mãi trong tâm trí của người Jrai. Phía đằng hiên ngôi nhà của cha, người ta còn giữ lại một cái cột do chính tay cha làm, trên cây cột có khắc dòng chữ: “Vườn hoa tôi đã trồng”. Đúng thế, vườn hoa đức tin cha trồng bằng tất cả lòng kính trọng và tình yêu nay đã nảy nở trong lòng người Jrai. Dòng chữ như lời mời gọi những thợ gặt hãy đến mà thu, hãy đến mà tiếp nối công cuộc thừa sai cha đã tạo dựng và hãy yêu thương người Jrai như cách cha đã yêu thương.
Amai H’ Blan
VRNs (15.07.2012) – Gia Lai
[1] Jacques Dournes, Aubier, 1963. Dieu aime les paiens” (Thiên Chúa yêu thương muôn dân), tr.11-17.
[2] Jacques Dournes, sđd.
[3] Dam Bo (Jacques Dournes), France – Asie, 1950. Les Populations montagnardes du Sud-Indochinois (Miền đất huyền ảo), Nguyên Ngọc dịch. NXB hội nhà văn, 2003.
[4] Tuyên ngôn của Liên hiệp Hội đồng Giám mục Á Châu 1999 – 2000
______________________________________________________
Đường về Krông Pa (5)
Tôi dự định ở lại Ayunpa thêm vài ngày nữa thì cha Gioan cho người đến tìm tôi vào một buổi sáng thứ tư. Cha nhắn rằng cha đang ở bên Trung tâm, có muốn về Krông Pa cùng cha thì qua. Tôi đã cho cha biết là tôi ở nhà ami H’siu từ khi tôi tới đây, có lẽ cha mong tôi và cũng muốn gặp tôi nên mới cho người qua báo như thế. Ami H’siu không muốn tôi đi chút nào vì chẳng mấy tin tưởng vào cái thân hình ốm nhom của tôi, cứ sợ qua cầu gió bay hoặc đổ bệnh nên dặn dò đủ thứ, nhất là chuyện ăn uống. Thực sự, tôi cũng đang rất tò mò về cha, vì những ngày ở đây, tôi nghe mọi người nói về cha khá nhiều, nên đồng ý đi ngay.
Người ta dẫn tôi thẳng ra phía sau nhà ăn của Trung tâm và nói tôi chờ một chút. Lát sau, cha chạy xe honda về, xách theo cái lồng chim, bên trong có một con chim vàng anh rất đẹp. Cha mặc cái áo khoác kiểu Liên Xô rộng thùng thình cộng với cái mũ bảo hiểm trùm kín đầu trông giống người chạy xe ôm hơn tu sĩ. Cha có đôi mắt sâu và gương mặt dài, thân hình cao to lực lưỡng. Mái tóc búp bê dài chấm ót. Chân đi đôi dép phao đen bụi bặm. Tôi đã quen nhìn các cha (triều) trong diện mạo chỉnh tề, nên không khỏi ngạc nhiên. Cha vừa nhìn cái valy đã đoán ra được tôi là ai, liền đi tới bắt tay và hỏi:
- Sao? Đã sẵn sàng về Krông Pa chưa?
- Dạ, con lên đây để về đó mà cha.
Cha cười sảng khoái, kiểu cười giòn tan của người đi tu. Thế là hai cha con lên đường về Krông Pa trong buổi sáng hôm ấy.
Từ Ayunpa về Krông Pa chỉ dài có 25 cây số thôi nhưng đi mất gần một tiếng đồng hồ vì đường lổm chổm ổ gà, có những đoạn đang sửa bụi bay mờ mịt, phải leo qua một dãy núi cao chót vót đỉnh còn mù sương rồi đổ xuống đèo Tôna đầy những khúc cua chết người. Cha nói những tay tài xế xe container chở hàng từ Tuy Hòa về Ayunpa ớn nhất đoạn đèo này vì rất dễ lật xe. Chính cha cũng đã xuống “đo đèo” hai lần rồi, may mà có Chúa đỡ nên không sao. Người ta đang làm một con đường khác dưới chân núi để xe cộ không phải qua đèo nguy hiểm. Từ đỉnh đèo nhìn xuống, một quang cảnh hùng vĩ mở ra trước mắt tôi. Núi đồi trùng điệp xếp lớp bên nhau không biết đâu là điểm dừng, phía dưới chân núi, người dân đương dọn nương rẫy, từng cụm khói trắng bay lên, tan loãng vào không gian hoặc lơ lửng lưng chừng núi tạo thành làn sương huyền ảo. Sông Pa uốn lượn núi đồi như vòng tay ôm lấy buôn làng dọc bờ sông. Những mái nhà sàn lợp tôn lấp lóa trong ánh nắng buổi sáng. Tôi thấy quang cảnh này thật quen, dường như đã thấy ở đâu đó rồi. Trong tiềm thức hay trong những giấc mơ, tôi không rõ, nhưng tôi cảm thấy một sự gần gũi như đã từng đến đây.
Lúc chạy xe ngang qua buôn Phùm Gi, cha đưa tay chỉ những ngôi nhà sàn lụp xụp, nhà xây cấp bốn nằm khép nép gần nhau nói:
- Đây là dân Israel, dân nghèo nhất trong các buôn ở Krông Pa, khổ nhất và ít học nhất. Cha muốn con về đây dạy học cho họ.
- Sao cha ưu tiên cho con toàn cái “nhất” không vậy?
- Vì con tới sớm nhất và vì họ cần người giúp nhất.
Thật không ngờ buổi nói chuyện phiếm hôm đó lại trở thành sự thật sau này.
Ngay cạnh Phùm Gi là công trường ngổn ngang đá tảng và máy xúc của công ty Hoàng Anh Gia Lai. Cha kể họ đang xây thủy điện, những ngôi nhà cấp bốn tôi vừa thấy khi nãy là nhà dân trong vùng quy hoạch bị giải tỏa dạt về. Chính quyền nhân danh tài sản của nhà nước lấy lại đất đai, rồi bán cho công ty Hoàng Anh lấy tiền mà không trả cho dân một đồng bồi thường, đến khi người dân khởi kiện thì chính quyền đưa bộ đội về đàn áp. Tôi ngoảnh đầu nhìn lại Phùm Gi, sau làn bụi mờ, chỉ thấy vài nóc nhà rúm ró đứng giữa đất trời hoang liêu.
Về tới Ia R’siơm, cha rẽ vô một con đường đất đầy phân bò vào buôn Ơi Nu. Đầu buôn có trường làng bốn phòng học dành cho học sinh cấp một. Hai bên đường những ngôi nhà sàn, vách gỗ mái tôn, một kiểu nhà đặc trưng của người Jrai bây giờ. Thỉnh thoảng cũng có nhà xây kiểu người Kinh nhưng vẫn thường giữ lại ngôi nhà sàn bên cạnh. Vài chú heo con chạy lăng xăng trên đường. Mấy đứa nhỏ da đen nhẻm, quần áo lếch thếch chạy theo xe mừng cha đã về. Cuối con đường, ngôi nhà nguyện da cam hiện ra rực rỡ trên phông nền bàng bạc của buôn làng.
Đấy là một khu đất rộng gần hai sào, bốn bề đã xây tường cẩn thận, một phần đất đang cất nhà dở dang, phần còn lại ngổn ngang đất cát, sắt thép xây dựng. Nhà có ba phòng phía dưới, gác trên dùng làm nhà nguyện. Có một cái cầu thang bên hông nhà dẫn thẳng lên nhà nguyện. Nhà nguyện đơn sơ, nền gỗ đóng chiếu, không có cửa nẻo gì cả, ai muốn tới giờ nào cũng được, nên cha nói rằng đây không phải là nhà của cha, mà là nhà của dân. Trước đây, trong buôn của người Jrai thường có một ngôi nhà rông, đó là ngôi nhà của mọi người trong làng. Tất cả những việc chung đều diễn ra ở đó. Nay trong buôn không còn nhà rông nữa, người Jrai xem nhà nguyện như nhà rông vậy. Cha kể, cha làm nhà nguyện chính quyền bắt gỡ xuống, không cho làm. Giờ cha quay sang xây nhà ở, gác phía trên làm nhà nguyện, họ không có cớ gì bắt bẻ được đành chịu. Tôi đã biết chính quyền không hề dễ chịu với các vị thừa sai, nhưng không ngờ sự việc lại khó khăn đến vậy. Sau này, khi đã về Sài Gòn rồi, tôi muốn đưa một nhóm bác sĩ lên khám bệnh cho người dân nhưng chính quyền không cho. Lần khác vào dịp tết, một nhóm sinh viên tình nguyện xin lên tổ chức sinh hoạt vui chơi với các em dân tộc, chính quyền cho nhưng khi tới nơi, bắt làm đủ thứ thủ tục và đưa công an đến khủng bố tinh thần đến mức nhóm chẳng dám quay lại.
Bước vào nhà, tôi gặp cha Micae còn rất trẻ đang lúi húi nấu ăn. Nhà bếp chưa có nên nấu tạm trong phòng ở. Bếp ga đặt trên hai cái thùng sơn rỗng, mắm muối dầu ăn và các thứ gia vị khác để chung trong một cái thau. Nồi niêu xoong chảo treo trong nhà tắm. Hôm nay cha Micae đãi tôi món cá khô, rau muống sốt cà chua và một tô cà pháo trộn mắm nêm. Tất cả đồ ăn để nguyên trong nồi và chảo rồi bày ra giữa phòng. Bàn ghế chẳng có nên cứ ngồi bệt xuống nền nhà mà ăn. Kiểu ăn dã chiến và bữa cơm đạm bạc làm tôi đắng họng khi nghĩ đến các vị linh mục ở Sài Gòn.
Sau bữa cơm, cha Gioan xếp cho tôi ở phòng giữa, cạnh phòng cha. Đẩy cửa bước vào, trước mắt tôi là bao to, bao nhỏ, chén bát, xô chậu, đĩa muỗng để ngổn ngang. Cha giải thích đây là đồ dùng cho những buổi tĩnh tâm lớn, khi tất cả mọi buôn tụ họp về. Cái phòng trông giống nhà kho hơn phòng ở, được cái khá rộng rãi. Tôi xách valy vào phòng, kiếm một góc làm chỗ ở cho mình. Kể ra, tôi còn may mắn chán vì có một cái phòng riêng để ở, không đến nỗi thảm hại như cha Giuse Trần Sĩ Tín phải ngủ ké chuồng dê[1]. Các phòng ngăn cách với nhau bằng những tấm kính lớn. Trong phòng, nhà tắm và nhà vệ sinh chung nhưng chưa có nước, phải kéo nhờ nhà dân bên cạnh. Phía trên là sàn gỗ nhà nguyện, vài khe hở lớn nhìn thấy cả mái tôn.
Krông Pa lọt thỏm trong một thung lũng bốn bề núi đồi bủa vây của cánh đông Trường Sơn, nên khí hậu đặc biệt nóng hơn các vùng khác ở Gia Lai. Gió cũng nhiều và mạnh đến nỗi các tấm kính trong phòng tôi đã rạn nứt. Nhà nguyện phía trên không có cửa, chỉ có một tấm bạt che tạm bợ cho nắng mưa đỡ tạt vào, gió thấy thế được đà lộng hành, thổi tấm bạt bay phần phật, luồn qua khe hở rít lên từng hồi như ma hú, kể cả ban ngày lẫn ban đêm. Chỉ khi tới đây, tôi mới hiểu thế nào là “Đồi gió hú” của nữ nhà văn Emily Brontë.
Chiều hôm đó, cha Gioan kêu tôi đi chợ mua đồ ăn cho bữa tối, thích ăn gì thì mua nấy. Ở đây có hai cái chợ, chợ Ia R’siơm chỉ bán buổi sáng, còn chợ Chư Rcăm chỉ bán buổi chiều. Cha chỉ đường sơ sơ rồi tôi tự đi. Tôi vừa dắt xe ra chuẩn bị đi thì có người gọi điện. Đó là Luông, một người bạn Jrai đang học dưới Sài Gòn cùng Mơai, người mà tôi chưa hề gặp mặt. Luông đã sống cùng cha Gioan ở trung tâm ngoài Ayunpa một thời gian, nên khi nghe Mơai nói tôi về Krông Pa giúp cha Gioan thì Luông gọi điện hỏi thăm và đặc biệt dặn dò rằng, nếu có đi chợ nấu ăn cho cha, thì nhớ mua cá vì cha Gioan chỉ ăn cá thôi. Tôi là người không thích ăn cá và ghét nhất là ăn cá nhỏ, vậy mà cha Gioan chỉ thích ăn cá, mà phải là cá nhỏ mới khoái. Thế là suốt thời gian ở với cha, tôi tập ăn cá. Thành thử bây giờ tôi ăn được tất cả mọi loại cá lớn bé mà không ngại gì cả.
Chợ Chư Rcăm nằm bên dòng sông Pa, băng qua cầu Lệ Bắc là tới. Chợ nhỏ và ít hàng hóa. Lèo tèo vài ba quán tạp hóa, mấy hàng thịt, hàng rau của người Kinh. Người ta đi chợ chiều chủ yếu để mua cá của người Jrai bắt từ sông Pa lên, còn sống tươi ngon hơn chợ sáng. Người Jrai cũng đem rau cỏ ở nhà trồng được ra chợ bán, nhưng kiểu bán không cân đo đong đếm như người Kinh. Ví dụ như họ bán cà, họ không bán theo ký, mà bán theo đống. Họ chia ra từng đống nhỏ nhỏ, có quả to quả bé, quả tốt quả xấu. Mỗi đống chừng hai ba lạng, giá hai nghìn đồng. Người Jrai không biết thương lượng giá cả, hai nghìn thì bán mà ba nghìn thì không, bớt xuống năm trăm cũng không chịu. Cho nên, mua bán với người Jrai miễn trả giá. Nói một là một. Hai là hai. Sau này biết tôi ở nhà cha Gioan, họ bán rẻ đi và còn cho nữa. Trước khi tôi tới, cha phải tự đi chợ nấu cơm. Người ta thấy cha đi chợ mua đồ ăn, tội nghiệp không dám lấy tiền. Vì vậy, khi nào nhà sắp hết quỹ tôi lại chọc cha: “Nhà mình nghèo rồi, cha đi chợ đi”. Cơm tối xong, cha Micae về lại trung tâm ngoài Ayunpa. Từ nay, chỉ còn tôi và cha Gioan ở Krông Pa.
Khi bóng chiều sụp tối, tôi nhìn thấy những đứa trẻ đi chăn bò về, lặng lẽ và mệt mỏi. Người lớn đi nương về, tay xách cuốc, lưng gùi củi, vừa đi vừa rầm rì nói chuyện. Bên thềm giếng, mấy đứa nhóc tranh nhau múc nước tắm, tiếng la ó đùa giỡn náo nhiệt một góc làng. Ở một mái hiên nhà, người phụ nữ lom khom giã lá mì lốc cốc. Nơi gian bếp bập bùng ánh lửa. Khói lan tỏa buôn làng. Tiếng dế rúc rích kêu. Cuộc sống thâm trầm và bình dị trôi qua, chỉ còn ngửi thấy mùi khói bếp và mùi nồng nồng của phân bò trên đường làng. So với Ayunpa, người Jrai ở Krông Pa còn “nguyên thủy”, đậm chất Jrai lắm. Bao nhiêu điều cha Jacques Dournes viết về người Jrai, ít ra vẫn còn thấy bàng bạc ở Krông Pa.
Tối nay là tối thứ tư, cả buôn Nu lũ lượt kéo nhau tới nhà nguyện. Họ tới đông đến nỗi ngồi tràn ra cả mái hiên. Mỗi tuần có hai ngày cầu nguyện, vào tối thứ tư và thứ sáu. Những buổi cầu nguyện như thế này thường là để chia sẻ Lời Chúa và kể cho anh chị em nghe về những ơn lành mình đã lãnh nhận được trong ngày qua. Chính vì vậy, buổi nguyện rất đông người tham dự. Tôi thấy người đàn ông Jrai lần giở cuốn Kinh Thánh bằng tất cả sự kính cẩn của mình. Người mẹ địu con trên lưng ngồi lặng im nghe người khác chia sẻ. Những cô gái Jrai cất tiếng hát ngợi khen Đức Chúa và đám trẻ mong chờ cha ban phúc lành. Tôi ngồi đây, nghe họ nói mà chẳng hiểu gì, nhưng tôi có thể cảm thấy sự linh thiêng và tín thác của họ trong những lời nguyện. Họ đến với Chúa mang theo nguyên vẹn con người của họ, vẻ lam lũ khổ cực, áo quần lấm lem bụi bẩn, đôi tay thô kệch chai sạn, bàn chân rạn nứt và ánh mắt xa xăm. Chúng tôi dù là Kinh hay Jrai, thì trong buổi cầu nguyện này, mọi sắc tộc đều vô nghĩa. Chúng tôi trở thành anh chị em của nhau. Chúng tôi trở nên một vì chúng tôi có cùng một Cha trên trời.
Giáo dân dự lễ sáng ngày thường tại nhà nguyện Ia R’suom
Mọi người ra về khi trăng 16 đã lên cao. Bầu trời cao lồng lộng và đẹp như bức tranh hổ phách. Ánh trăng soi tỏ từng ngóc ngách buôn làng. Giữa đất trời thanh khiết này, tôi thấy mình như đang ở một thế giới khác, thế giới của sự bình dị và thánh thiêng.
Amai H’ Blan
VRNs (16.07.2012) – Gia Lai
______________________________________________________
Tự cứu lấy mình (6)
Tôi đã về Krông Pa được vài ngày rồi, đã dần quen với cuộc sống lặng lẽ ở đây. Hôm nay là thứ hai, một ngày đầu tuần. Nếu ở Sài Gòn thì đây sẽ là ngày bắt đầu một tuần mới của tôi. Tôi sẽ hối hả, bận rộn, sẽ quay cuồng với đủ mối bận tâm, nhưng ở đây, ngày đầu tuần cũng như những ngày khác. Thời gian rộng thênh thang. Cha Gioan để cho tôi được tự do thong thả thích làm gì thì làm. Vì thế, mỗi sáng sau giờ lễ, tôi leo lên tháp nước, tự thưởng cho mình chừng nửa tiếng ngắm bình minh.
Từ tháp nước phóng tầm mắt về phía đông, sẽ thấy sông Pa miên man chảy về phía biển, núi chất ngất mờ sương. Quang cảnh bồng bềnh tựa chốn thiên thai. Và mỗi sớm mai là một màn trình diễn tuyệt diệu của ánh sáng. Bắt đầu từ khi trời mới ươm hồng cho đến khi hàng ngàn, hàng vạn thanh sáng ghép vào nhau tạo nên một vầng sáng khổng lồ tựa như hào quang. Vầng sáng ấy mỗi lúc một tráng lệ cho đến khi chiếu ra muôn ngàn dải sáng trắng đâm toạc đám mây đen dày đặc. Rồi những dải sáng ấy kết lại thành tấm thảm ánh sáng mềm mại cho vỡ òa một bình minh rạng ngời. Các tầng trời như mở ra. Từ mặt trời, tôi không còn thấy từng tia sáng một nữa mà chỉ thấy một khối chói lóa đến không dám nhìn. Cảnh tượng rất giống trong những bức tranh mô tả ngày ông Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho Chúa Giêsu bên bờ sông Jordan năm xưa. Tôi cảm tưởng như Thiên Chúa Toàn Năng Hằng Hữu đang ngự trị trong mặt trời bừng sáng kia, để cho bao nhiêu ân phúc thiên đình đổ xuống địa cầu và nguồn bình an vĩnh cửu rót xuống nhân gian. Dưới sự sáng láng của mặt trời, chỉ có chú chim sơn ca là lựa chọn khôn ngoan. Nó chắp cánh bay lượn thỏa thuê và dùng miệng lưỡi hót lời ca ngợi hừng đông. Nó là con vật biết cái gì đáng giá nhất trong cuộc sống này.
Một bình minh đang lên.
Khởi sự của ngày mới, của vạn vật bắt đầu.
Tôi cứ đứng giữa đất trời ấy mà tận hưởng bầu khí dịu ngọt của sớm mai cho tới khi ánh nắng dần gay gắt.
Buổi chiều, tôi men theo lối mòn nương rẫy lần mò ra sông Pa. Từ nhà ra sông chỉ độ 200 met. Chiều về, ánh nắng dần nguôi ngoai. Hoàng hôn xuống thật mềm và thật quyến rũ. Ánh vàng hực lên một màu huyền ảo. Trắng xen tím. Vàng pha xanh. Bầu trời cao vời vợi với muôn vàn hình thù. Nắng chiếu xuống dòng sông hắt lên lấp lóa. Bây giờ đang mùa khô, con sông co lại chỉ còn một phần ba, để lộ bờ cát vàng mênh mông. Sông lững lờ trôi. Gió từ sông thổi vào mát rượi. Tịnh không một bóng người. Quanh cảnh vừa nên thơ vừa hiu hắt. Bao giờ sông cũng gợi lên trong tôi hình ảnh về cố nhân, nên khi nào muốn đắm chìm trong hoài niệm cũ, tôi lại tìm tới sông. Nhưng tôi là người mê núi. Ra sông để nhìn núi, nhìn cây để nhớ người. Bao quanh sông là những dãy núi trùng điệp tưởng chừng như dâng mãi lên tới trời. Tôi trải tấm áo mưa trên nền cát sông Pa, nằm đó nghe sóng võ, chim hót. Đầu óc thanh thản. Cõi lòng bình an. Ngoài kia gió vẫn thổi, sông vẫn trôi nhưng thời gian như ngưng đọng.
…………………….
Krông Pa không có tài nguyên gì đặc biệt, ngoại trừ nắng nóng nổi tiếng. Nắng nóng đến mức người ta nói bắt đầu từ khi gà gáy cho tới khi đi ngủ. Được cái, nắng vùng này rất thích hợp để trồng thuốc lá. Thuốc lá nơi đây vừa dày, vừa to, được thương lái ưa chuộng hơn cả. Nhưng người Jrai không tận dụng nguồn ưu tiên này được vì đòi đầu tư lớn. Một hecta thuốc lá chi phí có khi lên tới trăm triệu. Người Jrai không có tiền làm. Biết thế, trước tết, người Kinh nhanh chân thuê lại những thuở đất trống khoảng bốn tháng để trồng thuốc lá. Mỗi ký thuốc lá có giá khoảng 50 ngàn. Một hecta người ta có thể thu từ 2 – 2,5 tấn. Người Kinh đã giàu lại càng giàu thêm. Còn người Jrai đã nghèo thì ngay cả cái có trong tay cũng bị lấy đi.
Ở đây, người Jrai cũng không tránh được làn sóng của cuộc sống hiện đại. Quốc lộ 25 chạy ngang qua Ia R’siơm thu hút nhiều người Kinh đến lập nghiệp bên đường. Họ mở quán café, quán nhậu, cửa hàng điện thoại và nhiều dịch vụ khác. Người Jrai vốn là một dân tộc hiền lành và thật thà, đã không được chuẩn bị gì để thích ứng trước cuộc đổ bộ ồ ạt của người Kinh. Còn người Kinh thì ra sức phô bày những sản phẩm của sự tiến bộ khiến người Jrai cảm thấy mình lạc hậu, ngu dốt. (Có phải vì vậy mà người Jrai khi nói chuyện với người có Kinh mặt cứ cúi gằm xuống và tự nhận mình là con lật đật không?). Kết quả là người Jrai bị kinh hóa mà không biết. Những đứa trẻ Jrai đứng trước hàng bánh đầy màu sắc của người Kinh, không thể nào cưỡng lại nổi sự hấp dẫn. Chúng nào biết trong cái bánh xanh đỏ ấy là chất bảo quản độc hại.
Trong buôn, tôi bắt đầu có những người bạn mới. Đó là bộ ba H’nhao, H’nhơi va H’nem. Ba bạn còn đang đi học, lần lượt lớp 11, lớp 10 và lớp 7. Tên của người Jrai có một nguyên tắc mà cứ nhìn vào đó người ta sẽ biết đó là con gái hay con trai liền. Tên con gái khi nào cũng có chữ “h” đằng trước, ví dụ như H’nhơr. Còn con trai thì không. Ba cô gái này ngày nào cũng qua nhà cha chơi. Các bạn gọi cha tiếng Jrai là ama, cho nên tôi cũng bắt chước gọi theo. Gọi kiểu này có cảm giác cha gần gũi hơn. (Có lẽ vì thế mà sau này khi về lại Sài Gòn, tôi gọi tất cả những vị linh mục là ama). Ở đây, người Jrai xem ama là người con chung của cả buôn làng. Vì thế, có chuyện gì họ cũng đến nói với ama. Từ chuyện đau cái răng, nhức cái chân, đến chuyện con heo đẻ được mấy con họ cũng đến nói cho ama nghe. Thậm chí, nếu kẹt quá, họ cũng chạy qua mượn tiền ama. Tôi cảm giác ama như cái sọt rác để họ trút vào đó tất cả mọi ưu tư, phiền muộn. Nhưng để trở thành cái sọt rác không phải dễ đâu nhé.
Ama giao cho ba cô gái nhiệm vụ dạy tôi tiếng Jrai. Thế là mỗi tối, các bạn tới, mang theo những câu chuyện của một ngày, đủ màu sắc cuộc sống. Nhờ ba cô gái này mà tôi bớt quạnh hiu và hiểu thêm về người Jrai. Ngoài Ayunpa, ami H’siu đã dạy tôi chút đỉnh tiếng Jrai, nhưng ở Krông Pa người ta nói khác. Ví dụ như Ayunpa nói là “bĭa mớ?” (nghĩa là “đúng không”?) thì Krông Pa nói là “jăk mớ?”. Mỗi vùng tùy theo thổ nhưỡng mà có nhiều phương ngữ khác nhau, nên vùng Plei Chuet nói nhiều từ vùng Cheo Reo không hiểu, kiểu như miền Trung và miền Bắc người Kinh vậy. Tuy nhiên, người vùng Pleily lại có thể nghe được tiếng của mọi vùng khác vì Pleily vốn là cội nguồn của người Jrai. Để cho dễ nhớ, tôi nhờ các bạn viết từ Jrai ra, rồi dán nó lên mọi vật dụng trong nhà. Nhưng khi làm thế thì tôi mới biết các bạn không rành viết chữ Jrai lắm. Và đó là tình hình chung của dân tộc này. Người Jrai có bộ chữ của riêng mình, điều mà rất nhiều dân tộc khác không có, nhưng bây giờ con cháu họ không biết viết chữ Jrai. Ở trường làng, một vài buôn có dạy chữ Jrai cho con em họ, kiểu dạy thêm chứ không nằm trong chương trình học, và đó là tất cả vốn liếng chữ nghĩa Jrai của các em. Khi lên cấp hai, trong trường chỉ dạy tiếng Kinh, các em cũng từ từ quên tiếng dân tộc mình. Nghe nói Bộ Giáo dục đang làm bộ sách giáo khoa riêng cho người Jrai. Không biết bao giờ các em mới được học bằng tiếng mẹ đẻ của mình.
Một tối nọ, ba cô gái qua sớm hơn thường lệ, hào hứng rủ tôi đi hội chợ. Ừ đi thì đi. Loại hội chợ này chỉ dụng võ được ở những làng quê hẻo lánh, nơi người dân tò mò muốn biết bê đê ra sao. Họ bày ra vài gian hàng vui chơi như ném banh vào rổ, phóng phi tiêu, chuột chạy…Mỗi lần chơi phải mua vé một hoặc hai ngàn tùy theo trò chơi. Giải thưởng thường là các loại kẹo, nước giải khát rẻ tiền, hết hạn. Dẫu cho người chơi có thắng giải thì họ vẫn lời. Nhưng người Jrai đâu có biết những điều này. Nghe nói hội chợ, cả buôn nô nức kéo nhau đi, đông nhất vẫn là giới trẻ. Ở một nơi không có nhiều trò giải trí, một hội chợ như thế này dễ dàng thu hút tất cả mọi người. Người Jrai lại vốn là một dân tộc thích chơi đùa, điều này thể hiện rất rõ khi làm lễ bỏ mả. Bây giờ không còn lễ bỏ mả nhưng dấu ấn vẫn còn đó. Mà đã chơi là người Jrai chơi hết mình. Cho nên, tôi chẳng lạ gì khi một bạn trẻ Jrai ném banh vào rổ không trúng, cứ đứng ném cho tới khi thắng hoặc hết tiền thì thôi. Hội chợ về đây đúng là hốt bạc. Có lẽ vì thế mà tháng sau lại thấy họ về.
Cũng từ ba cô gái này mà tôi biết được giới trẻ Jrai thích nghe nhạc trẻ của người Kinh, loại nhạc mì ăn liền, thần tượng các ca sĩ mới nổi, và có người muốn rũ bỏ nguồn gốc của mình. Các bạn thấy ngại ngùng khi mặc cái bành eng truyền thống (như cái xà rông của người Khơme), ngại địu con trên lưng, ngại đeo gùi, ngại nói cả tiếng Jrai. Người già mỗi ngày một già đi, tựa cửa nhìn ra thấy con cháu càng ngày càng nhạt màu dân tộc mà không biết phải làm sao níu lại. Thời của đêm đêm bên bếp lửa, già làng kể akhan qua rồi. Bây giờ, trong buôn không còn già làng nữa. (Nếu còn thì lại là già làng quốc doanh). Có một thực tế đáng buồn là nhiều bạn trẻ Jrai sau khi học hành thành đạt thì ra vẻ kiêu căng ngạo mạn với anh em mình và không muốn trở về giúp buôn làng nữa. Các bạn có lí của mình: ở làng, không có đất dụng võ. Tất nhiên, những điều trên đều có thể thông cảm vì đó là cái giá phải trả cho sự mở cửa, nhưng sẽ thật là xấu hổ với tổ tiên nếu các bạn được cho ăn học mà không biết viết chữ viết của dân tộc mình. Tôi chưa bao giờ có cảm thức về sự lụi tàn của dân tộc tôi trong đất nước này, cũng như chưa khi nào tôi mảy may nghĩ đến chuyện con cháu chúng tôi sẽ không biết viết tiếng Việt. Đơn giản chỉ vì người Kinh làm chủ đất nước này. Nhưng tôi nhận thấy rất rõ sự mỏng manh dễ vỡ của dân tộc này và có lẽ của 52 dân tộc còn lại. Khối đại đoàn kết dân tộc không làm cho mỗi dân tộc triển nở và giữ gìn được bản sắc riêng của mình, mà ngược lại, đang lột bỏ cá tính từng dân tộc để tất cả trở nên giống nhau như một con cừu trong hàng ngàn con cừu, một cỗ máy trong hàng ngàn cỗ máy. Nói theo ngôn ngữ bình dân thì dân tộc này đang trên đà tuyệt chủng.
Không biết có phải tôi đang bi quan yếm thế quá sức hay không, nhưng tôi thật sự lo sợ cho sự tồn vong của dân tộc này. Dù rằng Giáo Hội đã gánh lấy trọng trách đồng hành cùng với họ, nhưng chính họ, họ phải tự cứu lấy mình. Trách nhiệm thuộc về các bạn đó, người trẻ Jrai ơi. Các cha dù có tài giỏi và nhiệt huyết đến đâu thì các cha vẫn là người Kinh, các cha không có dòng máu Jrai, không có đủ sự đau khổ và bất hạnh để giữ mãi dân tộc các bạn trong tay đâu.
Amai H’ Blan
VRNs (17.07.2012) – Gia Lai
______________________________________________________
Người Jrai phải thật thà chứ (7)
Mùa này người Jrai đang vào chính vụ trồng mì. Đi đâu cũng thấy người ta hỏi nhau trồng mì xong chưa. Tôi rất muốn biết công việc làm ăn của họ thế nào, nên sau buổi cầu nguyện tối, tôi nói với ami H’sieng:
- Nhà chị có cần người trồng mì phụ không?
- Ai vậy? Chị hỏi ngược lại.
- Em nè.
- Em á. Em không trồng mì được đâu. Mệt lắm, em sẽ xỉu mất thôi.
- Ôi dào, nhà em làm nông mà. Chị cứ yên tâm.
Sau một hồi năn nỉ, cuối cùng chị cũng đồng ý sáng mai cho tôi đi cùng. Nhưng nhà chị trồng xong rồi, mai trồng cho dì của chị, tên là ami Brú. Nhà ami H’sieng cạnh nhà tôi. Ami H’sieng năm nay mới 21 tuổi, vui tính và nhiều ước mơ, còn chồng thì 22, trầm lặng nhưng siêng năng. Hai anh chị kết hôn sớm nên giờ đã có một bé gái lên hai, xinh xắn dễ thương. Ami H’sieng chỉ là một trong số rất nhiều bạn gái Jrai lấy chồng sớm. Người Jrai theo chế độ mẫu hệ, trọng con gái hơn con trai. Họ thường thúc bách con gái lập gia đình sớm để có thêm người làm. Sau khi cưới, người con trai về làm rể nhà vợ. Ở đây, cỡ tuổi tôi xem như ế chắc.
Tôi lục tìm trong mấy bao quần áo cũ, chọn lấy một bộ đồ đi làm, đội nón rồi đeo giầy dép chỉnh tề, nhìn cũng ra dáng nông dân thứ thiệt lắm. Thấy tôi lên đồ, ama chỉ lắc đầu cười. Hôm nay ama ở nhà đi chợ, tự nấu ăn nhé, con lên rừng đây.
Từ nhà ami H’sieng tới rẫy chừng bảy cây số thôi mà đi honda mất gần một tiếng đồng hồ. Ama H’sieng chở tôi ngồi giữa còn ami H’sieng ngồi sau đeo gùi. Người Jrai đi làm, ai cũng đeo một cái gùi sau lưng. Cái gùi rất tiện lợi lại đa năng. Này nhé, ở nhà đi thì bỏ nồi niêu xoong chảo, gạo muối, nước non, rau rợ vào gùi, gùi đi. Tới rẫy bỏ xương mì vào gùi đem đi trồng. Tối về hái rau rừng, lượm củi rả cho vô gùi, gùi về. Có thể nói cái gùi quan trọng như con trâu của người Kinh vậy.
Ra khỏi buôn, băng đường nhựa sang bên kia đường, cạnh trường tiểu học Nay Der có một con đường đất, chúng tôi rẽ vào đó. Ami H’sieng dặn tôi dù có thế nào thì cũng ngồi im trên xe, không được hốt hoảng. Sau khi đi qua một vài ruộng dưa và rẫy mì mới trồng, con đường bắt đầu thách thức tài năng của người cầm lái. Tối qua trời mưa một trận tầm tã, sáng nay con đường biến thành suối cát. Cát ngập đến bắp chân, cát phủ khắp ruộng nương, cát níu chân người lại. Có một cái rãnh do những người đi trước để lại, ama H’sieng cứ theo cái rãnh ấy mà đi, nếu trật ra ngoài thì xe lì lại như lọt xuống hố. Xe luôn để số một mà xì khói đen mới đi nổi. Ama H’sieng cứ phải để hai chân xuống, chống chế bên này bên kia như người say rượu. Chúng tôi chật vật lắm mới bò qua được đoạn đường gian khổ ấy. Vừa ngẩng đầu lên, trước mặt tôi lại là một thử thách khác, khó khăn hơn. Giờ chúng tôi không còn đi trên đường nữa, mà là đi dưới lòng chiến hào. Đoạn đường bị cơn mưa tối qua đánh sạt lở nhiều chỗ, đất đá trên núi đổ ập xuống chặn cứng lối đi. Vài người dân đang cố gắng sửa lại đường, họ đã khai thông được một lối đi rộng chừng nửa mét, chỉ vừa đủ cho một chiếc xe lọt qua. Tôi và ami H’sieng xuống đi bộ để ama H’sieng dễ qua. Thoát khỏi đoạn đường khổ ải ấy chưa được mấy bước, con đường lại bày ra chướng ngại vật mới. Một con dốc dựng đứng, toàn đá lổm chổm. Đá to, đá nhỏ, đá chìm, đá nổi, cục nhọn hoắt, cục láng trơn. Không thấy đường đi, chỉ thấy một bãi đá hiên ngang chắn đường. Vậy mà am H’sieng cứ từ từ lấn tới, tay lái gồng lên cứng cỏi, cả con người tập trung vào đường đi. Bây giờ tôi mới hiểu câu dặn dò của ami H’sieng lúc bắt đầu rẽ vào con đường này. Lên dốc rồi thì giờ đổ xuống, con đường trở nên quanh co và nguy hiểm hơn cả mấy khúc trước, phải ngoặt trái, quẹo phải liên tục như người múa chuyên nghiệp mới mong không húc phải tường đường. Có một đoạn chúng tôi luồn đi dưới những tàng cây rậm rạp như đi trong lòng một cái hang động vậy. Phải công nhận là đi đường này cảm giác phiêu lưu mạo hiểm hơn cả tàu lượn siêu tốc. Tốt nhất là đừng nhìn đường gì cả, càng thêm thót tim thót gan hơn mà thôi, cứ để cho người cầm tài lái chạy đi đâu thì đi, mình chỉ việc ngồi sau…cầu nguyện. Tôi thầm nghĩ, chỉ riêng công họ vận chuyển mì từ rẫy về làng để bán cho người Kinh, đã xứng đáng được mua giá gấp đôi rồi.
Cuối cùng chúng tôi cũng nhìn thấy rẫy mì, nhưng khi gần tới rẫy thì xe chết máy. Ama H’sieng nói hai chị em đi bộ trước đi, còn mình thì ngồi hí hoáy sửa. Chúng tôi tới rẫy được một lúc thì ama H’sieng cũng chạy xe tới. Gương mặt đen giờ ướt đẫm mồ hôi trông càng khắc khổ. Tôi hỏi ama H’sieng có hay bị hư xe giữa rừng không. Ama H’sieng nói cũng hay bị lắm. Mấy ngày sau tôi lại lên núi thăm rẫy của ama H’noel, xe cũng bị đứt xích giữa rừng. Ama H’noel phải mất cả buổi để đi đi về về kiếm đồ sửa xe. Rất mệt và vất vả. Nhưng phải kiếm đồ sửa thôi, chứ vất xe trong rừng đâu có được, mà kéo nó về cũng không xong. Người Jrai thích mẫu mã đẹp nên toàn mua xe Trung Quốc, đi được vài năm là hư hỏng liên miên. Tiền sửa còn quá tiền mua xe. Những người đi rừng nhiều thường sắm cho mình một chiếc xe riêng, người Jrai gọi là xe lâm tặc. Loại xe này thường là win hoặc 67 đã được độ chế lại cho có phân khối lớn mà leo núi. Bánh xe sau phải to và lốp dày như xe đua mới leo núi được. Yên đằng sau nối dài thêm để chở hàng và quan trọng nhất là thắng phải xịn. Xe không cần đèn còi, bửng biếc gì hết, chỉ cần bộ máy tốt là ok. Nhìn cái xe rất xấu, như mấy bộ xương khủng long nhưng leo đèo lội suối là số một.
- Nhà chị có cần người trồng mì phụ không?
- Ai vậy? Chị hỏi ngược lại.
- Em nè.
- Em á. Em không trồng mì được đâu. Mệt lắm, em sẽ xỉu mất thôi.
- Ôi dào, nhà em làm nông mà. Chị cứ yên tâm.
Sau một hồi năn nỉ, cuối cùng chị cũng đồng ý sáng mai cho tôi đi cùng. Nhưng nhà chị trồng xong rồi, mai trồng cho dì của chị, tên là ami Brú. Nhà ami H’sieng cạnh nhà tôi. Ami H’sieng năm nay mới 21 tuổi, vui tính và nhiều ước mơ, còn chồng thì 22, trầm lặng nhưng siêng năng. Hai anh chị kết hôn sớm nên giờ đã có một bé gái lên hai, xinh xắn dễ thương. Ami H’sieng chỉ là một trong số rất nhiều bạn gái Jrai lấy chồng sớm. Người Jrai theo chế độ mẫu hệ, trọng con gái hơn con trai. Họ thường thúc bách con gái lập gia đình sớm để có thêm người làm. Sau khi cưới, người con trai về làm rể nhà vợ. Ở đây, cỡ tuổi tôi xem như ế chắc.
Tôi lục tìm trong mấy bao quần áo cũ, chọn lấy một bộ đồ đi làm, đội nón rồi đeo giầy dép chỉnh tề, nhìn cũng ra dáng nông dân thứ thiệt lắm. Thấy tôi lên đồ, ama chỉ lắc đầu cười. Hôm nay ama ở nhà đi chợ, tự nấu ăn nhé, con lên rừng đây.
Từ nhà ami H’sieng tới rẫy chừng bảy cây số thôi mà đi honda mất gần một tiếng đồng hồ. Ama H’sieng chở tôi ngồi giữa còn ami H’sieng ngồi sau đeo gùi. Người Jrai đi làm, ai cũng đeo một cái gùi sau lưng. Cái gùi rất tiện lợi lại đa năng. Này nhé, ở nhà đi thì bỏ nồi niêu xoong chảo, gạo muối, nước non, rau rợ vào gùi, gùi đi. Tới rẫy bỏ xương mì vào gùi đem đi trồng. Tối về hái rau rừng, lượm củi rả cho vô gùi, gùi về. Có thể nói cái gùi quan trọng như con trâu của người Kinh vậy.
Ra khỏi buôn, băng đường nhựa sang bên kia đường, cạnh trường tiểu học Nay Der có một con đường đất, chúng tôi rẽ vào đó. Ami H’sieng dặn tôi dù có thế nào thì cũng ngồi im trên xe, không được hốt hoảng. Sau khi đi qua một vài ruộng dưa và rẫy mì mới trồng, con đường bắt đầu thách thức tài năng của người cầm lái. Tối qua trời mưa một trận tầm tã, sáng nay con đường biến thành suối cát. Cát ngập đến bắp chân, cát phủ khắp ruộng nương, cát níu chân người lại. Có một cái rãnh do những người đi trước để lại, ama H’sieng cứ theo cái rãnh ấy mà đi, nếu trật ra ngoài thì xe lì lại như lọt xuống hố. Xe luôn để số một mà xì khói đen mới đi nổi. Ama H’sieng cứ phải để hai chân xuống, chống chế bên này bên kia như người say rượu. Chúng tôi chật vật lắm mới bò qua được đoạn đường gian khổ ấy. Vừa ngẩng đầu lên, trước mặt tôi lại là một thử thách khác, khó khăn hơn. Giờ chúng tôi không còn đi trên đường nữa, mà là đi dưới lòng chiến hào. Đoạn đường bị cơn mưa tối qua đánh sạt lở nhiều chỗ, đất đá trên núi đổ ập xuống chặn cứng lối đi. Vài người dân đang cố gắng sửa lại đường, họ đã khai thông được một lối đi rộng chừng nửa mét, chỉ vừa đủ cho một chiếc xe lọt qua. Tôi và ami H’sieng xuống đi bộ để ama H’sieng dễ qua. Thoát khỏi đoạn đường khổ ải ấy chưa được mấy bước, con đường lại bày ra chướng ngại vật mới. Một con dốc dựng đứng, toàn đá lổm chổm. Đá to, đá nhỏ, đá chìm, đá nổi, cục nhọn hoắt, cục láng trơn. Không thấy đường đi, chỉ thấy một bãi đá hiên ngang chắn đường. Vậy mà am H’sieng cứ từ từ lấn tới, tay lái gồng lên cứng cỏi, cả con người tập trung vào đường đi. Bây giờ tôi mới hiểu câu dặn dò của ami H’sieng lúc bắt đầu rẽ vào con đường này. Lên dốc rồi thì giờ đổ xuống, con đường trở nên quanh co và nguy hiểm hơn cả mấy khúc trước, phải ngoặt trái, quẹo phải liên tục như người múa chuyên nghiệp mới mong không húc phải tường đường. Có một đoạn chúng tôi luồn đi dưới những tàng cây rậm rạp như đi trong lòng một cái hang động vậy. Phải công nhận là đi đường này cảm giác phiêu lưu mạo hiểm hơn cả tàu lượn siêu tốc. Tốt nhất là đừng nhìn đường gì cả, càng thêm thót tim thót gan hơn mà thôi, cứ để cho người cầm tài lái chạy đi đâu thì đi, mình chỉ việc ngồi sau…cầu nguyện. Tôi thầm nghĩ, chỉ riêng công họ vận chuyển mì từ rẫy về làng để bán cho người Kinh, đã xứng đáng được mua giá gấp đôi rồi.
Cuối cùng chúng tôi cũng nhìn thấy rẫy mì, nhưng khi gần tới rẫy thì xe chết máy. Ama H’sieng nói hai chị em đi bộ trước đi, còn mình thì ngồi hí hoáy sửa. Chúng tôi tới rẫy được một lúc thì ama H’sieng cũng chạy xe tới. Gương mặt đen giờ ướt đẫm mồ hôi trông càng khắc khổ. Tôi hỏi ama H’sieng có hay bị hư xe giữa rừng không. Ama H’sieng nói cũng hay bị lắm. Mấy ngày sau tôi lại lên núi thăm rẫy của ama H’noel, xe cũng bị đứt xích giữa rừng. Ama H’noel phải mất cả buổi để đi đi về về kiếm đồ sửa xe. Rất mệt và vất vả. Nhưng phải kiếm đồ sửa thôi, chứ vất xe trong rừng đâu có được, mà kéo nó về cũng không xong. Người Jrai thích mẫu mã đẹp nên toàn mua xe Trung Quốc, đi được vài năm là hư hỏng liên miên. Tiền sửa còn quá tiền mua xe. Những người đi rừng nhiều thường sắm cho mình một chiếc xe riêng, người Jrai gọi là xe lâm tặc. Loại xe này thường là win hoặc 67 đã được độ chế lại cho có phân khối lớn mà leo núi. Bánh xe sau phải to và lốp dày như xe đua mới leo núi được. Yên đằng sau nối dài thêm để chở hàng và quan trọng nhất là thắng phải xịn. Xe không cần đèn còi, bửng biếc gì hết, chỉ cần bộ máy tốt là ok. Nhìn cái xe rất xấu, như mấy bộ xương khủng long nhưng leo đèo lội suối là số một.
Nhà chòi trên nương rẫy của người Jrai
Mảnh vườn của ami Brú rộng chừng 1,5 hecta, có trồng vài cây điều thưa thớt. Phía đầu rẫy có một cái chòi nhỏ lợp tôn để tránh nắng mưa. Khi tôi tới, mặt trời đã lên cao, ánh nắng dần gay gắt, trên rẫy đã có chừng 20 người, kể cả con nít và người lớn. Mọi người đang say sưa làm việc. Tôi được trao cho một cái gùi. Họ tưởng tôi cũng khỏe như người Jrai nên đổ xương mì đầy gùi. Tôi ghé lưng đeo thử và thật tình, không tài nào đứng lên nổi vì quá nặng. Ai cũng cười, rồi họ đưa cho tôi cái gùi nhỏ nhất, chỉ bằng một nửa cái gùi ban đầu. Vậy mà những em nhỏ, vẫn đeo cái gùi to trên lưng nhẹ nhàng như đeo cặp đi học. Người Jrai sau khi sinh con, thường địu con trên lưng bằng một tấm khăn dài. Mẹ đi đâu, làm gì cũng địu con theo đó. Khi mùa thu hoạch mì tới, cả nhà bồng bế nhau lên rừng, dắt cả chó mèo, trâu bò lên rẫy ở hàng tháng trời. Ban ngày, đứa trẻ theo mẹ ra nương rẫy, chịu nắng nôi, gió mưa, vất vả, khổ sở cùng mẹ. Tối đến chịu cái rét cắt da của núi rừng. Cho nên, ngay từ bé, những đứa trẻ Jrai đã được rèn luyện nắng mưa, rất dẻo dai chứ không yếu như tôi.
Công việc của tôi là bỏ xương mì xuống những đường cày, sẽ có một người cầm cuốc đi sau lấp đất lên. Có một điều hết sức thú vị là người Jrai không cày bằng trâu bò, cày cuốc mà bằng xe honda. Họ dùng chính cái xe lâm tặc đi rừng để cày. Vì đất vùng này là đất cát, nên chỉ cần ngồi lên xe, chạy một đường từ đầu này qua đầu kia là có một đường cày ngon lành. Chừng hai năm trở lại đây, người Jrai chế ra kiểu cày bằng honda vừa nhanh, vừa đẹp lại vừa nhàn. Chỉ cần một hai người chạy xe, là đủ cho 20 – 25 người trồng. Có điều, cày kiểu này tốn xăng và nóng máy, nên người ta phải dội nước liên tục để làm mát máy.
Mùa trồng mì, người Jrai phải đổi công cho nhau để có người làm, hôm nay làm nhà này, ngày mai làm nhà kia. Cứ xoay tua như vậy cho đến hết. Công cán bây giờ cao lắm, thấp nhất cũng 100 ngàn một ngày, người Jrai đâu có tiền để thuê. Kiểu làm việc thế này làm tôi nhớ những ngày còn ở quê, đi đổi công cắt lúa cho nhau trong xóm. Ngày mùa nhộn nhịp, có không khí là ở chỗ đổi công. Bây giờ quê tôi có máy cắt lúa, chỉ việc trả tiền là người ta đến cắt lúa, say suốt rồi chở về tận nhà. Chẳng ai làm phiền tới ai. Nghĩa tình làng xóm cũng nhạt đi.
Chừng 10 giờ, nắng nóng như thiêu như đốt. Ai nấy mặt mũi đỏ bừng, mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Ami H’sieng sợ tôi say nắng, cứ chạy lại hỏi có mệt không. Cuối cùng thì chị không cho tôi làm nữa, bắt vào chòi nấu cơm cho mát.
Bữa cơm trưa nấu giữa rừng, kê ba hòn đá làm bếp, ra suối lấy nước vo gạo. Khi vừa tới rẫy, gia chủ đã ra suối vét vài cái hố cát rộng chừng cái thau, để trưa về, trong hố có đầy nước, không cần phải ngồi chờ nước rỉ ra. Nước trong nhưng có vị lờ lợ của núi rừng. Tôi đi nhặt củi về cho các ami nấu, chợt nhớ hồi nhỏ cũng đã từng trải qua cảnh này mà cay cay sống mũi. Giữa chốn núi rừng heo hút này, có thể nói kỹ năng sống đáng giá hơn mọi kỹ năng khác.
Bữa trưa bắt đầu lúc 12 giờ. Nhìn ra ngoài trời, nắng đến nhức mắt, trông xa chỉ thấy một làn nước ảo ảnh. Chẳng bàn ghế, bao bạt gì cả, chúng tôi ngồi bệt xuống đất mà ăn. Dường như quá hiểu sự vất vả của người làm, cho nên gia chủ đãi ăn rất sang, cá chim hấp lá giang, gỏi tai heo và canh bí hầm xương. Cơm để trong một cái thúng có lót lá chuối phía dưới. Bây giờ người Jrai cũng tiến bộ lắm rồi, ăn bằng chén bát đàng hoàng chứ không bốc bằng tay như chục năm trước nữa. Chẳng biết hên xui thế nào, tới lượt tôi thì hết đũa. Thế là tôi có cơ hội trải nghiệm ăn bằng tay, cũng thú vị ra phết. May mà gạo của người Jrai khi nấu thành cơm rời rạc và khô không khốc, nên bốc cũng không dính tay. Gia chủ thấy tôi ăn bốc, vội nhường đôi đũa của mình cho tôi. Thật là hiếu khách quá! Gạo này họ trồng trên núi, sáu tháng mới gặt, hột nào hột nấy to gấp đôi gạo của người Kinh. Người Jrai nói họ chỉ ăn gạo này thôi, ăn gạo dẻo của người Kinh khó nuốt và mau đói lắm. Tôi không quen ăn gạo này, nhưng vì đói quá cũng ăn được hai chén. Ăn xong, tìm một gốc cây điều nào đó mát mát ngả lưng, nghe hơi nóng bốc lên ngùn ngụt, cảm tưởng như quay ngược lại một thời nào đó rất xa xưa của con người.
Cơm nấu từ gạo của người Jrai
Khoảng một giờ rưỡi trưa, chúng tôi bắt đầu trồng mì tiếp. Nắng lúc này gay gắt không chê vào đâu được. Có lẽ vì nắng quá nên không ai muốn nói chuyện, chọc ghẹo như buổi sáng nữa. Mọi người lầm lũi làm cho xong công việc. Chúng tôi đã trồng được quá nửa, từ giờ đến chiều sẽ xong sớm. Tôi thắc mắc tại sao lại phải làm ngay giấc trưa nắng nôi thế này. Cứ nghỉ ngơi chút nữa, đợi ông trời dễ chịu hơn hãy làm. Đằng nào cũng xong trong ngày hôm nay mà. Đó là suy nghĩ của tôi, của nếp nghĩ người Kinh. Người Jrai không nghĩ vậy. Họ không muốn tối rồi mà còn trong rừng vì như thế dễ bị ma bắt. Tốt nhất là nên về trước khi hoàng hôn tắt[1]. Vả lại, họ chẳng quan tâm thời gian, cũng chẳng sợ nắng, nên cứ ăn xong, nghỉ ngơi một chút là làm, không cần biết đó là mấy giờ. Hôm sau tôi lại đi trồng mì cho một người khác trong làng, cũng tình trạng tương tự. Cứ nấu cơm xong là họ gọi về ăn, bất kể mấy giờ. Ăn xong nghỉ ngơi một chút lại ra làm. Thấy trời nắng không há họng nổi, tôi vạch đồng hồ ra xem, 12giờ15, cái giờ nắng nhất trong ngày. Hôm đó, chúng tôi làm tới hơn ba giờ chiều là xong. Thời gian còn lại về nhà ngồi chơi. Có đi làm cùng họ, có ăn uống và sống cùng họ, mới hiểu họ phải cơ cực như thế nào để có của ăn, mới hiểu tại sao họ lại đen đúa và mau già đi như vậy.
Rẫy mì xen giữa vườn bắp của người Jrai
Người Jrai thường có nhiều đất, nhà nào ít lắm thì vài ba sào, bình thường thì vài hecta, nhiều có khi trên chục hecta, nhưng đa số đất trong rừng sâu. Những mảnh đất gần đường cái, hoặc rẫy rời xung quanh buôn làng, phần lớn đã thuộc về tay người Kinh. Người Kinh có một kiểu lấy đất đầy khôn ngoan và nhẹ nhàng mà cha Gioan có lần kể tôi nghe như sau: Bây giờ người Jrai sống chủ yếu nhờ vào trồng mì, một năm thu hoạch một lần. Muốn mì to, củ nhiều thì phải bỏ phân. Mà tính của người Jrai là không tích trữ, có bao nhiêu tiền xài hết bấy nhiêu, đến lúc cần bỏ phân thì không còn tiền. Thế là đi mượn tiền của người Kinh. Người Kinh sẵn sàng cho mượn, mượn bao nhiêu cũng có. Thường thì các đại lý phân bón hay cho người Jrai mượn, khi nào thu hoạch thì trả bằng mì và phải bán mì cho các đại lý đó. Người Kinh quy số tiền lúc mượn thành bao nhiêu ký mì theo giá lúc mượn. Ví dụ, ami H’sieng mượn năm triệu, giá mì lúc mượn là 2,5 nghìn/kg, vậy là ami H’sieng đã vay của người ta hai tấn mì. Đến khi thu hoạch, giá mì thường lên, có thể lên tới 4 – 5 nghìn/kg. Thế là người Kinh lời một gấp đôi. Nhưng không phải khi nào người Jrai cũng làm mì trúng. Gặp thời tiết thất thường như năm ngoái thì nhiều nhà chẳng có mì mà trả. Thế là số tiền nợ năm trước chồng chất lên số nợ năm sau, tới một lúc người Jrai không còn đủ sức để trả nợ nữa thì người Kinh lấy đất. Người Jrai lại lên núi phát rừng làm rẫy. Cứ thế, người Jrai càng ngày càng chạy lên núi cao, còn người Kinh thì vẫn ung dung sống ở làng.
Ami H’hot xem lại gùi sau một ngày làm việc
Một hôm đi chợ cùng một phụ nữ trong làng, tôi tò mò hỏi:
- Mình bán mì cho chủ đầu tư, họ mua giá có cao bằng mấy chỗ khác không?
- Ồ, không đâu. Họ mua rẻ hơn chứ.
- Vậy mình bán cho người khác được không?
- Được chứ.
- Thế ami có bán không?
- Đâu có được. Mình là người Jrai mà, phải sống thật thà chứ.
Thật không thể ngờ, câu trả lời trên cả tuyệt vời và thâu tóm hết mọi lí do tại sao người Jrai lại bị người Kinh lấn chiếm, tại sao họ cứ mãi nghèo nàn, lạc hậu. Câu trả lời làm tôi vô cùng xấu hổ, lại vừa cảm phục. Nếu là tôi, tôi sẽ bán cho người nào mua giá cao. Đó là suy nghĩ của tôi và của đa số người Kinh. Người Kinh vẫn tự hào là người văn minh tiến bộ hơn người Jrai, liệu những con người văn minh đó có chút nào văn minh hơn trong tâm hồn mình không? Biết tới ngày nào người Kinh mới nói được câu: “Mình là người Kinh mà, phải sống thật thà chứ”? Nhìn người Jrai, nghĩ tới dân tộc mình mà xót xa. Có lẽ thửa xa xưa, người Kinh cũng thật thà, cũng hiền lành, cũng trong sáng như vậy. Bây giờ biết tìm đâu?
Amai H’Blan
VRNs (18.07.2012) – Gia Lai –
[1] Jacques Dournes, NXB Aubien, Paris, 1978. Foret, Femme, Folie (Rừng, đàn bà, điên loạn), Nguyên Ngọc dịch và giới thiệu, 2002.
______________________________________________________
Điểm tựa tâm linh (8)
Ở Krông Pa có tất cả bảy điểm làm lễ cho người Jrai, mỗi điểm ở một buôn khác nhau, nằm rải rác khắp huyện. Ngày chủ nhật, một mình ama Gioan không tài nào dâng lễ ở tất cả các điểm được, nên thường có một ama ngoài trung tâm Ayunpa vào giúp. Lần này tới lượt ama Phêrô.
Ama Phêrô mới thụ phong linh mục, dáng người thấp tròn vững chắc, da dẻ hồng hào, tính tình vui vẻ hòa đồng. Ama Gioan sẽ làm lễ ở ba điểm. Ama Phêrô ba điểm. Còn lại một điểm sẽ dâng lễ vào sáng thứ ba. Để làm lễ trong Krông Pa, ama Phêrô phải vào từ chiều thứ bảy, để sáng chủ nhật kịp dâng lễ lúc năm giờ sáng trong buôn Djêck xã Chư Ngọc, cách Ayunpa khoảng 60 cây số. Đây là điểm làm lễ xa nhất trong bảy điểm. Tôi xin đi cùng Ama Phêro cho biết dân tình thế thái ra sao.
Đường vào buôn Djêck đi về hướng thị trấn Phú Túc, gần giáp với Phú Yên. Trên đường đi, ama Phêrô kể tôi nghe vụ mì vừa rồi thất bát mà lái buôn còn ăn chặn đầu đuôi. Một hôm, họ vào cân mì nhà ama Wiêng. Đứa con trai của ama Wiêng đang học lớp 12 ngoài Ayunpa mới về đang ngồi chơi ngoài sân. Cân mì xong, họ viết cho ama Wiêng một cái hóa đơn với nhiều con số lằng nhằng. Ama Wiêng không biết chữ, cầm tờ hóa đơn hỏi đứa con trai. Đứa con trai xem xong cũng không hiểu bèn ra hỏi lại:
- Những con số này từ đâu ra?
Người lái buôn ngạc nhiên hỏi lại:
- Mày biết đọc à?
- Biết chứ. Đi học phải biết chứ.
Thế là hắn ta buộc phải giải thích. Kể ra để thấy người Jrai sẽ dễ bị bắt nạt nếu không biết chữ. Họ vốn thật thà, chẳng biết tính toán, cứ thấy cục tiền to là khoái, chẳng cần biết người ta trả mình có đủ hay không. Họ dùng tiền đó ăn chơi, mua sắm thoải mái cho kỳ hết thì thôi. Hoàn toàn không có khái niệm tích trữ để đầu tư cho mùa sau, nên mới có chuyện thu cả trăm triệu tiền mì mà vẫn đi vay như thường.
Chúng tôi ở nhờ nhà một người dân, sợ làm phiền gia chủ, tôi đem theo vài gói mì tôm như lời ama Gioan dặn. Gia đình này thuộc loại khá giả trong làng, nên xây riêng cho các ama một căn phòng để nghỉ ngơi khi tới làm lễ. Phòng có hai cái giường đơn, chăn mền đầy đủ, thích nhất là có quạt bàn và bình nước bên cạnh, nhưng không có toilet. Ama Phêrô dặn tôi nếu có đi vệ sinh thì tranh thủ lúc đêm khuya hoặc khi trời chưa sáng, kẻo mấy con heo nó rượt. Người Jrai gọi heo là un, ăn thịt rất ngon. Nó thính mùi lắm, mà đã đi ăn là kéo theo cả đàn. Tôi nghe nhiều người nói khi vào buôn muốn đi vệ sinh, nên nhờ một người cầm cây đứng canh, hoặc leo lên cây cao ngồi cho an toàn. Tôi không thích cảnh ấy tí nào, nên chỉ ăn uống cầm chừng.
Cơm nước xong, một chị trong nhà rủ tôi đi tập hát bên nhà thờ. Thấy tối trời, ama Phêrô đưa cho tôi một chiếc đèn pin. Ánh đèn trắng lấp lóa trên đường làng ngập cát. Vài chú chó thấy ánh đèn lạ chạy ra sủa váng lên. Trời về đêm mát mẻ dễ chịu hẳn đi chứ không nóng bức như ban ngày. Chúng tôi vòng vèo quanh mấy căn nhà sàn, rồi cuối cùng dừng lại trước một ngôi nhà gỗ ở giữa buôn. Nếu đi qua đây mà không có người chỉ, thì tôi không thể nào biết được đây là giáo đường. Nhìn bề ngoài, nó giống hệt những ngôi nhà khác, chỉ khi bước vào bên trong mới thấy sự khác biệt. Trong nhà thờ không có bàn ghế, con chiên tới dự lễ cứ ngồi bệt xuống nền xi măng. Bàn thờ làm bằng gốc cây, chính giữa có tượng Chúa Giêsu chịu nạn, bên trái có nhà tạm để mình thánh Chúa và bức ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Chỉ vậy thôi. Trông đơn sơ nhưng cảm giác ấm cúng.
Khi tôi tới, có khoảng 20 bạn cả nam lẫn nữ đang ngồi quây quần bên nhau tập hát. Sự xuất hiện của tôi làm mọi người im bặt. Tôi cảm giác người Jrai như chiếc lá trinh nữ, người ngoài đụng vào là khép hết lại, nhưng sẽ từ từ mở ra khi biết nhau. Sau này có dịp đi nhiều buôn khác, tôi cũng thấy tình trạng tương tự. Có thể vì nền văn hóa cộng đồng làm cho người Jrai chỉ thực sự năng động, sôi nổi khi ở giữa anh em của mình, cũng có thể vì tôi là người Kinh nên mọi người dè dặt. Giữa lúc tôi không biết phải làm thế nào thì anh trưởng nhóm đứng dậy mời tôi vào. Tôi bước vào và chào mọi người bằng tiếng Jrai, tự nhiên không khí như giãn ra. Đến khi tôi cầm quyển thánh ca Jrai hát cùng, thì các bạn nhìn tôi bằng con mắt thiện cảm hơn.
Anh trưởng nhóm xếp cho tôi ngồi giữa một nhóm bạn gái. Tôi chưa bao giờ ở trong khung cảnh này, tức là ngồi giữa buôn làng Jrai, hát thánh ca bằng tiếng Jrai cùng những người bạn Jrai, và nhất là được đắm chìm trong tiếng cồng chiêng dập dìu. Dường như tiếng hát Jrai chỉ thật sự vút cao khi hát với cồng chiêng. Cũng như chiếc cồng chiêng kia, dù được người Lào chế tác, người Bahnar gò, nhưng phải để người Jrai chơi thì mới có hồn. Những bài thánh ca Jrai dù được phổ lại của người Kinh thì vẫn mang một âm điệu khác. Âm điệu réo rắt như lời tự tình về dòng dõi Jrai, về thuở đi chinh phục tự nhiên, về kiếp sống lầm than cơ cực và một niềm tín thác vào Ơi Adai (Chúa Trời). Lúc mới theo đạo, có một người Jrai nói với vị thừa sai rằng: “Khi tôi nghe cha bảo đức tin của người Jrai phải thấm vào máu Jrai, tôi không hiểu lắm. Nhưng khi tôi nghe nhạc cồng chiêng trong thánh lễ, tôi thấy tim tôi rộn ràng, lông tóc như dựng đứng, tôi tự hỏi không biết đó có phải là đức tin bắt đầu thấm vào máu Jrai chưa?”[1]. Tiếng cồng chiêng chính là một thứ ngôn ngữ khác của người Jrai, một tiếng nói vô ngôn nhưng có thể làm rung động mọi con tim Jrai. Đêm nay, tôi là người khách lạ giữa những người anh em Jrai, nhưng lại được diễm phúc hít thở bầu khí của âm vang núi rừng.
Thánh lễ bắt đầu lúc năm giờ sáng, khi những ngôi sao còn lấp lánh trên trời và màn đêm còn giăng mắc khắp nơi. Nhưng trước đó cả tiếng đồng hồ, mọi người đã lục tục kéo nhau tới nhà thờ. Ở giữa làng, tiếng cồng chiêng rộn rã như thúc giục, như mời gọi mọi con chiên mau chân bước tới giáo đường. Đàn ông, đàn bà, con trai, con gái đều mặc quần áo Jrai truyền thống, hoa văn đỏ trắng nổi bật trên nền vải đen. Lạ một điều là dù có cách điệu thế nào, thì người ngoài chỉ nhìn qua một cái là biết ngay đồ đồng bào. Họ chỉ mặc đồ truyền thống đi nhà thờ, hoặc trong những dịp quan trọng mà thôi. Và dường như, chỉ khi mặc đồ của người Jrai, trông họ mới đẹp rạng ngời. Từ mọi nẻo đường trong buôn, người ta đổ tới nhà thờ đông như trẩy hội, ai tới trễ hết chỗ phải đứng ở ngoài, nên người ta đi lễ trước cả tiếng đồng hồ. Ngoài việc sử dụng ngôn ngữ Jrai trong thánh lễ, người ta còn làm cho thánh lễ trở nên sinh động bằng những điệu nhảy suang nhịp nhàng, những cái vỗ tay phụ họa thánh thi, lúc đọc tin mừng thì cả nhà thờ đều đọc cùng. Mọi người đều thấy mình đang góp phần vào thánh lễ, chứ không thụ động ngồi nghe như lễ của người Kinh. Đặc biệt, lễ của người Jrai có nhiều khoảng thời gian thinh lặng để mỗi người cầu nguyện riêng. Đức tin của người Jrai mãnh liệt không có gì phải bàn. Trong suốt thời gian tôi ở với họ, chính nhờ những người anh em Jrai mà đức tin của tôi được củng cố và vững mạnh lên. Một hôm dự lễ sáng, thấy ama H’noel đứng lên ngồi xuống có vẻ khổ sở, tan lễ tôi lại hỏi thăm:
- Sao mấy bữa nay không thấy ama H’noel đi lễ vậy?
- Ừ, mình bị đau dạ dày mấy bữa nay, không đi lễ được.
- Thế đã đi khám bệnh chưa?
- Mình không đi bác sĩ đâu. Giờ mình cứ đi nhà thờ cầu nguyện xin Chúa là khỏi thôi.
Anh nói hồn nhiên đến mức tôi giật mình. Nếu tôi trong hoàn cảnh của ama H’noel, thì việc đầu tiên là tôi đi tới bác sĩ, khám bệnh bốc thuốc trước đã. Sau đó nếu không đỡ thì tôi lại đi bác sĩ khác cao tay hơn, tới bệnh viện khác giỏi giang hơn, và cứ thế, cho đến khi không còn ai có thể chữa trị được cho tôi nữa, thì tôi mới nhớ tới Chúa. Đó là suy nghĩ của tôi và cũng của rất nhiều người khác. Chúng ta xếp Chúa sau cùng. Còn ama H’noel xếp Chúa trước tiên. Anh tin rằng Chúa sẽ chữa lành cho anh, và chẳng phải cuộc sống này đầy rẫy những phép màu đó sao. Chúng ta không bàn tới chuyện phân loại đức tin ở đây, tôi chỉ thấy rằng, cuộc sống càng hiện đại, tiện nghi bao nhiêu thì con người ta càng rời xa Chúa bấy nhiêu. Con người tự hào vỗ ngực cho rằng mình có thể làm được tất cả mọi sự và gạt Chúa qua một bên. Nhưng con người dù con người có tài giỏi thế nào đi nữa cũng chỉ là cát bụi mà thôi.
Trước khi Kitô giáo đến với người Jrai thì họ đã có một tín ngưỡng khả dĩ của mình theo cơ cấu nước – lửa – gió rồi. Mọi hoạt động sống của họ đều quy chiếu về đó, từ việc thiết lập ba vị potao, đến cách đựng nhà theo hướng bắc nam, cách sắp xếp từng khu vực ăn,ở, ngủ nghỉ trong nhà…. Họ ý thức môi trường sống của họ là một môi trường toàn linh, đâu đâu cũng có yang, có thần, làm gì cũng cầu cúng xin thần phù hộ, chở che. Trên tất cả các yang, họ có một vị thần tối cao là Ơi Adai. Tôn giáo trở thành văn hóa, luật tục. Họ đã sống như thế hằng ngàn năm. Vững bền và ổn định.
Khi người Pháp tới, rồi người Mỹ vào, nền tôn giáo nguyên sơ ấy bắt đầu bị lung lay. Cho tới khi người Kinh ồ ạt lên tây nguyên từ năm 1975, thì tôn giáo của người Jrai bị bật gốc thảm hại. Pơtao chỉ còn là hữu danh vô thực. Nhà sàn cất vô phương hướng. Rừng bị tàn phá. Tục hóa thần linh. Thêm vào đó, chính quyền cấm cản đi lại, làm cho đời sống cộng đồng khô héo. Những lễ hội, lễ nghi bị chê là mê tín dị đoan. Đứng trước sự tiến bộ hiện đại của người Kinh, người Jrai thấy mình lạc hậu, thua kém rồi sinh ra tự ti, mặc cảm. Cơ cấu nước – lửa – gió không còn nhìn trong đời sống của người Jrai nữa. Mất chỗ dựa tâm linh, họ trở nên bơ vơ vất vưởng không nơi nương tựa.
Giữa lúc đó, họ tìm thấy nước – lửa – gió trong các bí tích Kitô giáo. Trong Thánh Kinh, nước – lửa – gió đều là những hình ảnh của Thần Khí. Khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, họ được thổi hơi (gió). Đối với người Jrai,việc thổi hơi sẽ làm họ liên tưởng tới nghi thức “bhet tơngia” (mở tai) cho em bé một tháng tuổi. Khác với người Âu – Á quan niệm trí khôn là ở nơi đầu óc, người Jrai cho rằng sự khôn ngoan, thông minh nằm ở lỗ tai. Linh mục cũng sẽ trao nến sáng (lửa) với ý nghĩa hãy “Trở nên ánh sáng Chúa Kitô”. Người Kinh gọi bí tích Thanh Tẩy là bí tích Rửa Tội. Khi nhắc đến bí tích này người ta nghĩ ngay đến việc dội nước lên đầu em bé. Nhưng các vị thừa sai trên Tây Nguyên xem đây là Phép dìm với ý nghĩa người lãnh nhận bí tích sẽ được dìm trong ngôi Cha, ngôi Con và ngôi Thánh Thần. Vị linh mục sẽ cử hành bí tích này bên cạnh một đoạn sông, một con suối (nước), sau đó lấy nước đổ lên đầu người chịu phép. Người Jrai còn thấy nước – lửa – gió trong bí tích Thêm Sức, bí tích Thánh Thể, trong cuộc khổ nạn – phục sinh của Chúa Giêsu, và trong suốt đời sống Kitô hữu của họ[2] Điều hết sức thú vị là Thiên Chúa của người công giáo lại chính là Ơi Adai của người Jrai, vị thần tối cao nhất mà tổ tiên họ luôn phụng thờ. Nếu trước đây, người ta không dám gọi tên Ơi Adai, (phải đốt heo, đốt trâu mới được gọi) thì nay, họ có thể gọi tên Thiên Chúa (dịch sang tiếng Jrai là Ơi Ama Adai) như gọi một người Cha, trâu bò xưa đã được thay bằng chính Thân Thể Chúa Yêsu.
Nhưng để người Jrai nhận ra Thiên Chúa, các vị thừa sai đã phải chờ đợi gần 30 năm, kể từ vị thừa sai đầu tiên là cha Jacques Dournes (1955). Năm 1985, những người Jrai đi học tập cải tạo lục tục trở về và bắt đầu làm chứng cho Chúa. Thời gian học tập của họ đều từ 10 năm trở lên. Trong 10 năm đó, chính quyền ra sức dạy dỗ để họ trở nên vô thần, nhưng họ lại thay đổi theo hướng hoàn toàn ngược lại. Phần lớn những người đi cải tạo theo đạo ngay trong tù. Đây là điều chính quyền không hề mong muốn nhưng lại vô tình tạo ra, vì đa số người người Jrai bị nhốt chung với các linh mục linh hướng quân đội.
Đến năm 1988, năm tôn vinh các thánh tử đạo Việt Nam, thì người Jrai trở lại đạo như một trận cuồng phong không có vách ngăn nào cản trở được nữa[3]. Cứ như thế, số người tin theo Chúa ngày một tăng. Đến năm 2009, đã có khoảng 37 ngàn giáo dân Jrai[4]. Một con số ấn tượng không chê vào đâu được. Người Jrai đã nhận thấy Thiên Chúa sẽ trở thành chỗ dựa vững chắc cho họ, sẽ phục hồi lại nền văn hóa cho họ, sẽ là lá chắn cho họ trước sự tấn công của cuộc sống hiện đại. Thời của những Pơtao, già làng đã qua rồi. Giờ đây, họ trao phó vận mệnh dân tộc họ vào tay Giáo Hội như người con phó thác linh hồn trong tay cha.
Amai H’ Blan
VRNs (19.07.2012) – Gia Lai
______________________________________________________
Lớp học Phùm Gi (9)
Tháng sáu đã tới. Thời gian tôi mong chờ cuối cùng cũng tới. Tôi sẽ được làm công việc vì nó mà tôi tới đây. Và quả thật, chỉ có mình tôi tới đây. Các bạn sinh viên không lên nữa. Họ bận. Cuộc sống mà, ai cũng bận cả.
Chỉ còn một mình tôi. Thử nghĩ xem tôi sẽ phải làm thế nào với bảy điểm dạy học cách xa nhau trong vòng bán kính 30km, học sinh đủ mọi cấp độ và cuộc sống dường như thuộc về một thế giới khác. Tôi nói ama: “Vì con không có sức để làm tất cả, con xin được đến với nơi nào nghèo nhất, khổ nhất, cần chữ nhất”. Ama chẳng phải suy nghĩ cũng có thể đọc ra một nơi như vậy: Phùm Gi.
Tôi đến Phùm Gi vào một buổi sáng thứ ba, ngày ama tới làm lễ thay cho ngày chúa nhật. Ama chở tôi đi cùng để giới thiệu cho mọi người biết tôi là ai. Nhân tiện, cũng để tôi biết nơi mình sẽ ăn ở và để tôi định liệu xem khi nào thì có thể bắt đầu dạy được.
Qua cái cổng chào hoen rỉ, cái dốc cao ngất, Phùm Gi hiện ra trước mắt tôi. Khi núi rừng còn mờ sương, ngôi sao mai còn lấp lánh đằng tây, khi đất trời còn say giấc trong tiếng ru của ghềnh thác sông Pa, thì ở cuối buôn, tiếng kinh nguyện rầm rì đã cất lên, nghe như một bài ca, ca ngợi ngày mới và tạ ơn Thượng Đế, cũng lại vừa giống như tiếng đau khổ lầm than của kiếp người cố bám víu vào Đấng Tối Cao để tìm sự an ủi, chở che.
Chúng tôi dừng lại trước một ngôi nhà sàn ở cuối buôn. Ngôi nhà dài chừng 15 mét và rộng cỡ ba mét của hai mẹ con ami H’Hot, bên trên người ở còn bên dưới thì heo bò ở. Khi tôi bước vào, đã có khoảng ba chục người, đứng ngồi la liệt trong căn nhà sàn thấp tè, tối om và lổm ngổm đồ đạc. Kìa góc trái lủng lẳng quần áo. Góc phải thau chậu ngổn ngang. Trên đầu mạng nhện giăng tơ và dưới sàn lấm lem đất cát. Cả gian nhà chỉ có một cái bóng đèn và nơi sáng nhất trong nhà là bàn thờ làm lễ. Chó mèo lên xuống hiên ngang như chỗ không người. Thỉnh thoảng, heo bò dưới sàn nhà rủ nhau rống lên kiểu muốn dự lễ cùng. Mọi người đã quen với khung cảnh này nên không ai để ý đến điều gì ngoài vị chủ tế, ngoài những lời ngài đang nói. Người phụ nữ đứng cạnh tôi, vừa địu con, vừa quỳ đọc kinh bằng tiếng Jrai, hai tay chị giang rộng, đôi mắt khép hờ và vẻ mặt cực kỳ thành tâm như phó thác mọi sự trong tay Chúa. Đứa bé trên lưng rung theo từng nhịp thở của chị, được ru trong tiếng kinh và thấm luôn cả đức tin của chị. Quanh cảnh như thuộc về một thời nào đó xa xưa, những ngày tiên khởi của Hội Thánh.
Không đủ bàn, học trò phải nằm viết
Không đủ bàn, học trò phải nằm viết
Một tuần sau tôi quay lại Phùm Gi. Để tiện cho việc dạy học, tôi ở luôn tại nhà ami H’Hot, cuối tuần sẽ về lại nhà ama. Nhà ami H’Hot chỉ có hai mẹ con nên tha hồ rộng rãi, căn nhà ấy vừa là nhà ở, nhà thờ kiêm luôn nhà trường. Tới nơi, tôi thấy một đám trẻ trên 10 đứa đang chơi phía sau nhà ami H’Hot. Tôi liền bày cho bọn nhóc trò chơi vòng trong vòng ngoài, và tình cờ phát hiện ra rằng trong buôn chẳng có mấy trò chơi. Đến khi dạy học, tôi lồng ghép các trò chơi vào trong buổi học, và sau khi học xong, tôi cho các em sinh hoạt vòng tròn. Đây là điều các em rất thích. Cũng nhờ trò chơi ấu thơ kia mà tôi chiếm được cảm tình của bọn trẻ khiến tôi đi đâu tụi nhóc cũng đi theo, kể cả ra sông tắm.
Múa theo trò chơi
Múa theo trò chơi
Tối đến, tôi còn đang ăn dở chén cơm thì các em tới. Tất cả là 25 em cả trai lẫn gái, một con số khá ấn tượng trong buổi gặp đầu tiên. Đứa lớn nhất 19 tuổi và nhỏ nhất năm tuổi. Học cao nhất lớp tám và có tới một nửa chưa biết chữ là gì.
Các em tới, rất vô tư và tự nhiên ngồi xuống xung quanh tôi, líu lo như một đàn chim.
Các em tới vì biết hôm nay có người đến buôn của các em và dạy một cái gì đó, chỉ vậy thôi.
Các em tới với đôi mắt to tròn, đen láy và hàng lông mi cong vút lúc nào cũng mở ra nhìn tôi.
Các em tới, đi chân đất, mặc nguyên bộ quần áo còn ẩm ướt lúc chiều tắm bên sông Pa.
Các em tới với hai bàn tay trắng, thừa sự háo hức nhưng đầy vẻ ngại ngùng
Chúng tôi ngồi bên nhau, làm quen và phác họa rất nhanh chương trình học. Một tuần sẽ học năm buổi. Từ thứ hai tới thứ sáu. Lúc bảy giờ đến chín giờ tối vì ban ngày các em đều bận đi chăn bò. Sau giờ học sẽ sinh hoạt vòng tròn, tập hát, kể chuyện hay chiếu phim tùy nhu cầu. Tôi biết trong buôn các em yếu nhất hai môn toán và tiếng việt nên chỉ tập trung dạy hai môn đó. Ban ngày tôi rảnh, ai cần học cứ tới, tôi dạy hết. Bọn trẻ khoái chí, vỗ tay rần rần và hẹn tối mai rủ thêm bạn tới.
Lớp học. Tác giả là cô giáo đang dạy học
Lớp học. Tác giả là cô giáo đang dạy học
Khi bọn trẻ về hết và chỉ còn lại một mình trong ngôi nhà trống trải, thì tôi tự hỏi chính mình: “Thế là lớp học của tôi bắt đầu thật rồi sao?”. Bắt đầu mà chẳng có gì cả. Không bàn không ghế. Không phấn không bảng. Không sách vở bút viết. Đến cả ánh sáng cũng nhờ nhợ như một vì sao xa. Chúa ơi, Chúa đã dẫn con tới đây thì xin Chúa cũng hãy chỉ bảo cho con biết con phải làm gì nhé. Và Chúa đã nhận lời.
Ngài chỉ cho tôi biết việc đầu tiên là tôi hãy quá giang xe về Ia R’siơm vào sáng hôm sau để mua sách vở, bút viết cho bọn trẻ, sau đó về nhà ama tìm một tấm ván làm bảng. Tôi không quên mang theo ít panadol phòng ốm đau. Anh Wiêng xung phong làm xe ôm chở tôi về lại Phùm Gi với bao nhiêu thứ lỉnh kỉnh trên người. Qua tới nơi mới biết còn thiếu một thứ rất quan trọng, đó là bàn học. Thế là cô trò hì hục vác những tấm ván ở chuồng bò nhà ami H’hot ra sông Pa cọ rửa, lau khô. Tôi mượn ba cái ghế nhựa nhà ami H’hot làm trụ mà vẫn không đủ, liền mượn luôn cả cái cối giã gạo của nhà bên cạnh. Vậy là có những cái bàn ngon lành. Tưởng thế là ổn, ai dè học trò đông quá, lên tới 35 em, không có đủ bàn, thành thử, khoảng một phần ba lớp học phải nằm, quỳ hoặc bò ra mà viết. Học trò của tôi viết trên những cái bàn thô kệch ấy. Những dòng chữ ngoằn ngoèo, đôi khi dơ bẩn, tẩy xóa tùm lum, duy chỉ có đôi mắt là sáng như sao và sự chăm chỉ đến tê người. Nhìn học trò lăn lóc viết, tôi như chết lặng. Ôi! Có nơi đâu đi kiếm con chữ mà khổ sở đến vậy không hả trời?
Kê “bàn” chuẩn bị học
Kê “bàn” chuẩn bị học
Tôi phát cho mỗi em một cây viết và một cuốn vở, bắt các em viết tên của mình vào vở, khi học xong tôi thu bút vở lại, kẻo bọn trẻ mang về xé vở làm diều hết. Bữa sau tới học, tôi lại phát ra. Thế là bảo toàn được lực lượng. Cứ nhìn gương mặt háo hức nhận vở của bọn nhóc mà thấy vui lây. Có nhiều em chưa biết viết, phải nhờ mấy bạn lớn viết hộ tên. Người Jrai có nhiều cái tên đọc muốn méo miệng mà vẫn không trúng, tiếng Việt cũng không biết phải viết thế nào. Những em chưa biết viết không theo kịp anh chị lớp lớn, tôi cho ngồi riêng ra một góc rồi cầm tay tập viết cho từng đứa. Có cầm tay bọn nhóc, có đặt mũi vào mái tóc cháy nắng và bộ quần áo khét lẹt, lấm lem bùn đất và sực nức mùi phân bò của bọn nhóc, mới thấy xót xa cho các em. Còn bọn trẻ thì cứ nắm chặt bút, mím chặt môi viết như sợ từng chữ bay đi mất.
Học sinh và cô giáo chụp hình kỷ niệm (tác giả áo đen phía sau bên phải)
Học sinh và cô giáo chụp hình kỷ niệm (tác giả áo đen phía sau bên phải)
Học xong, tôi cho sinh hoạt vòng tròn. Từ trước đến giờ, chưa có ai đến với các em, dạy dỗ các em và cho các em chơi các trò chơi mà đáng lí tuổi của các em phải được chơi. May mà ngày xưa tôi tham gia Giới trẻ Con Đức Mẹ và hay làm quản trò, nên cũng biết chút ít. (Thật không ngờ mấy món ăn chơi ngày xưa ấy lại có đất dụng võ vào ngày hôm nay). Những trò sóng biển, chim sổ lồng, ta là vua, thụt thò… làm bọn nhóc khoái chí vô cùng. Giờ sinh hoạt chính là điều mà bọn trẻ mong đợi nhất sau khi học. Qua một ngày vất vả ngược xuôi, sau dãi dầu mưa nắng, thì giờ đây, các em được tha hồ sống thật với bản tính hồn nhiên vô tư của tuổi thơ. Các em không còn vẻ lam lũ của những đứa trẻ chăn bò nữa, mà thay vào đó là những gương mặt linh hoạt, nụ cười rạng rỡ và ánh mắt lung linh.
Trẻ em Phum Gi tắm sông Pa về
Trẻ em Phum Gi tắm sông Pa về
Tôi thích đứng một mình nhìn các em ra về sau khi giải tán, vì lúc đó, men chơi còn chất ngất, khiến đứa này chọc ghẹo đứa kia, để rồi cả đám đuối bắt nhau, tiếng cười giòn tan như bắp nổ rộn rã trên đường làng. Bóng bọn trẻ khuất lấp trong màn đêm rồi đậu xuống dưới một mái nhà, mang theo vào giấc ngủ nụ cười trên môi. Hôm nay trăng sáng, tha hồ chơi, gần mười giờ rưỡi các em mới chịu về. Mấy chục cái miệng thi nhau chúc tôi “pit hiam” (nghĩa là chúc ngủ ngon) rồi ùa chạy đi trên con đường làng đầy ánh trăng, tiếng cười trong veo như nước suối cứ trầm bổng rồi tan theo núi rừng vào thinh không. Thử hỏi có ai hạnh phúc hơn tôi không? Tối nào cũng có vài chúc người chúc ngủ ngon. Không muốn cũng sẽ ngủ rất ngon, hỡi những thiên thần Jrai ạ.
Amai H’ Blan
VRNs (20.07.2012) – Gia Lai
______________________________________________________
Buôn bị bỏ rơi (10)
Phùm Gi cách buôn Nu khoảng sáu cây số thôi nhưng có tới hai kiểu đường. Hai cây số đầu là đường nhựa láng o, khoảng bốn cây số sau thì lởm chởm đá, ổ gà và mịt mù bụi bặm. Buôn nằm cạnh quốc lộ 25, bên cạnh con đường rách nát y như bản thân mình vậy. Đi ngang qua nhìn vào buôn, sẽ thấy những ngôi nhà sàn nhỏ bé đứng cạnh nhau, rúm ró, buồn bã và nín nhịn. Cả buôn có khoảng 70 nóc nhà. 99% là người Jrai và một gia đình người Kinh đến bán tạp hóa giữa làng. Những buôn khác gọi Phùm Gi là dân Israel. Trong Kinh Thánh, dân Israel là dân riêng của Chúa, là dân được Chúa tuyển chọn. Còn ở đây, Israel tức là dân bị bỏ rơi. Sở dĩ có tên gọi như vậy là vì ngày xưa, những người vi phạm luật lệ của buôn Nu sau khi bị đuổi ra khỏi buôn (hình phạt nặng nhất của người Jrai) đã tụ về đây và gầy dựng nên buôn này.
Cõng em ra sông chờ bố mẹ đi làm về
Cõng em ra sông chờ bố mẹ đi làm về
Vì nguồn gốc bất hảo ấy, nên Phùm Gi nằm tách biệt ra hẳn mọi buôn khác. Mặt quay hướng nam nhìn về những buôn anh em như nuối tiếc, còn lưng thì tựa vào dãy đèo Tôna cao vút bên dòng sông Pa. Mấy năm trước, người dân của các buôn gần đấy còn rất sợ Phùm Gi đến mức chỉ cần nghe thấy tên là họ đã lảng tránh đi nơi khác, không muốn nói chuyện. Họ sợ vì họ cho rằng Phùm Gi là hang ổ của trộm cắp, bùa chú và đủ thứ xấu xa khác. Có phải vì quá khứ xa xưa nên trông Phùm Gi cứ đìu hiu lặng lẽ một mình? Hay vì bóng hình cao lớn của dãy núi sau lưng mà Phùm Gi đã nhỏ bé, lại càng nhỏ bé hơn? Nơi đây không có chợ búa hay nhà thuốc gì cả. Muốn mua gì, họ phải đi vào Ia R’siơm cách đó chừng bảy cây số. Bán cái gì cũng rẻ hơn vài giá so với nơi khác.
Giữa buôn có trường làng, chỉ một phòng học. Lớp một học buổi sáng. Lớp hai học buổi chiều. Lên lớp ba thì qua học ké Phùm Ang cách đó chừng hai cây số. Lên lớp sáu thì phải vào Ia R’siơm học. Cả buôn từ trước đến nay chưa có ai tốt nghiệp lớp 12.
Cũng như những buôn khác, Phùm Gi sống bằng nghề nông. Trước kia họ trồng lúa, còn bây giờ chuyển qua trồng mì vì mì có giá hơn. Họ cũng trồng thêm lúa, mè, bắp, hột dưa và nuôi bò dê tăng thu nhập. Nương rẫy Phùm Gi nằm bên kia sông pa, dưới dãy núi cao ngất, vì đất bên này bán cho người Kinh hết rồi. Muốn lên rẫy, họ phải vượt sông bằng chiếc ghe nhỏ, hai tay hai mái chèo bơi đi như vịt, trông rất nguy hiểm. Rẫy xa, bố mẹ đi làm từ sáng đến chiều mới về, mấy đứa nhỏ ở nhà tự tìm cái ăn. Nấu cơm được thì ăn, không thì chạy qua nhà hàng xóm ăn ké. Có bữa tôi thấy tụi nhỏ ăn xoài trừ cơm. Bí quá không kiếm được cái gì bỏ vào miệng thì nhịn. Ăn uống thất thường, thiếu chất, nên đứa nào đứa nấy cũng bụng ỏng đít beo, không lớn lên được mà cứ quắt lại. Người Jrai thương con vô cùng nhưng lại không biết cách chăm sóc con cái. Họ để quần áo chúng rách rưới, đầu tóc dơ bẩn, mặt mày lem luốc. Mỗi chiều tắm xong, đám trẻ đứng trên những tảng đá cao ngóng bố mẹ từ bờ bên kia chèo về như những con chiên lạc không người chăn dắt.
Cả Phùm Gi không có lấy một cái giếng. Đất nơi đây toàn đá, đào giếng rất cực mà chẳng có nước, nên tất cả mọi sinh hoạt đều dùng nước sông Pa. Sáng sáng, trước khi lên nương, những cô gái trong buôn đeo gùi ra sông lấy nước. Họ vét một hố cát, ngồi chờ nước thấm vào, rồi múc từng gáo nước đổ vào quả bầu khô gùi về nhà. Nước để nguyên trong quả bầu, không nấu nướng gì hết. Khi nào uống cứ việc xách quả bầu lên tu một hơi căng bụng đã đời. Ai chịu khó hơn thì chèo thuyền qua sông, tìm tới những con suối trên núi. Người ta nói nước suối uống ngon nhất, sau đó mới tới nước sông, nước giếng xếp hạng ba.
Địu con đi lấy nước
Địu con đi lấy nước
Cứ chiều đến, tôi lại ra sông nhìn người dân từ bờ bên kia chèo thuyền về. Nắng vàng trải xuống lòng sông sóng sánh như lụa. Trời cao xanh. Núi ngút ngàn. Cảnh tượng trông bình yên đến lạ. Con nít giờ đó cũng ra sông tắm rửa, mong ngóng bố mẹ. Phụ nữ tranh thủ lấy nước, giặt giũ quần áo. Bến sông trở nên nhộn nhịp hẳn. Cũng ở đây, tôi nghe người dân kể về sông Pa với giọng điệu tiếc nuối. Họ nói: “Ngày trước sông Pa trong xanh lắm, lại có nhiều cá nữa. Gần đây có một cái thác rất đẹp gọi là thác tiên. Bây giờ thì hết rồi”. Mấy năm trở lại đây, sông Pa bắt đầu đục ngầu vì ô nhiễm, nhưng người dân đâu còn cách nào khác là cứ phải tiếp tục uống thứ nước đó. Nguồn nước ô nhiễm kéo theo bệnh tật. Viêm khớp, đau thận, đau bao tử là những bệnh ít người thoát được. Theo họ, thà chết từ từ vì bệnh còn hơn là chết ngay tại chỗ vì khát.
Cõng nước về nhà
Cõng nước về nhà
Trong buôn hầu như không có người già bởi lẽ đâu ai sống thọ tới 60. Phân nửa học trò của tôi mồ côi cha hoặc mẹ từ khi còn rất nhỏ. Trước kia, khi còn rừng, người Jrai không cần tới những viên thuốc Tây của người Kinh. Trong rừng đầy thảo dược, lúc bị đau, họ chỉ việc đi ra rừng tìm loại cây chữa bệnh đó đem về. Tùy loại bệnh mà ăn, sắc nước hay đắp. Họ rành thảo dược như ta bây giờ ra tiệm mua thuốc vậy[1]. Nhưng bây giờ thì hết rồi. Rừng chẳng còn và thảo dược cũng hết luôn. Khổ nỗi, bác sĩ ở đây khám không tin tưởng được. Một đứa học trò của tôi cứ bồn nôn, bố mẹ vội đem đi Ayunpa khám bệnh. Bác sĩ khám tới khám lui một hồi rồi viết cho bố mẹ cô bé một toa thuốc, kêu đi mua những thứ thuốc trong đó. bố mẹ cô bé cứ thế cầm toa ra tiệm thuốc, người bán thuốc hỏi: “Sao lại mua thuốc phá thai?”. Bố mẹ cô bé bối rối bảo: “Đâu có”. “Thì bác sĩ viết mua thuốc phá thai đây nè”. Bố mẹ cô bé hết hồn đưa con đi siêu âm. Siêu âm xong không thấy gì cả. Hai ông bà tức quá quay lại gặp ông bác sĩ chửi: “Con gái tôi đang học lớp 10 mà ông bảo nó có thai à”, nói xong đoạn cầm toa thuốc xé ngay trước mặt bác sĩ rồi bỏ về. Thì ra đó là tay bác sĩ gà mờ, khám bậy bạ rồi phán lung tung. Thật ra, ở cái đất này làm gì có bác sĩ khá hơn.
Cuộc sống của họ nếu cứ thế trôi qua thì cũng đã bần cùng lắm rồi. Thế mà một ngày kia, cách đây khoảng hai năm, Công ty Hoàng Anh Gia Lai lập dự án xây thủy điện. Để có đất xây thủy điện, chính quyền lấy đất của dân lại mà không hề đền bù một xu, rồi bán lại cho Hoàng Anh Gia Lai. Kết quả, dự án đó nuốt hết một nửa buôn Phùm Gi và nuốt luôn cả sự linh thiêng ở đây.
Đoạn sông bị quy hoạch ngay Phùm Gi có một huyền thoại, người vùng này gọi đó là huyền thoại hai cây xoài. Người ta kể rằng, ngày xưa có một gia đình, có hai người con, một chị gái và một em trai. Người chị tên là H’dung. Em trai tên là Čap. Một hôm, H’dung làm bánh cho cả nhà ăn. Chị lấy những cái bánh có bùa yêu (làm cho người khác yêu mình mãi mãi) bỏ vào một nồi khác, đậy nắp lại, và dặn mẹ không cho Čap ăn, sau đó chị ra suối lấy nước. Čap đi làm về, đói bụng, vào bếp tìm đồ ăn. Čap thấy hai cái nồi, một cái đậy nắp kỹ càng. Čap nghĩ: “chắc chị muốn giấu không cho mình ăn đây”. Thế là anh ta mở nắp ra ăn bánh trong đấy ngon lành. Ăn xong, Čap thấy trong người khác lạ. Kể từ đó, H’dung đi đâu, Čap cũng đi theo làm cho H’dung rất xấu hổ với buôn làng. H’dung biết Čap đã ăn trúng bùa yêu của mình, nhưng hai chị em không thể lấy nhau vì như thế là loạn luân, là phạm vào cấm kỵ nặng nhất của làng. H’dung bèn nói với Čap: “Nếu em thật lòng yêu chị, em hãy kéo núi ngăn sông Pa lại, để cho người dân trong làng không có nước uống mà chết. Lúc đó mình sống với nhau sẽ không xấu hổ nữa”. Čap là con của thủy thần nên sức mạnh vô biên, anh ta liền kéo những dãy núi liền lại để ngăn sông Pa. Lúc những dãy núi sắp liền thì H’dung hối hận. Cô nói Čap dừng tay lại rồi nhảy xuống sông tự tử. Čap thấy vậy cũng nhảy theo chị. Hai người chết mà cũng ôm nhau. Người dân thấy thế liền chôn hai chị em ở ngay nơi họ tìm thấy xác, đó là một cồn cát giữa sông Pa. Một thời gian sau, từ nơi ấy mọc lên hai cây xoài. Một cây ra quả tròn, ăn rất ngọt, người ta gọi là cây chị. Một cây ra quả dài, ăn rất chua, gọi là cây em. Những bậc cha mẹ trong buôn vẫn kể ngày xưa, lúc nhỏ đi chăn bò, vẫn tới hai cây xoài này hái quả ăn. Nhưng khi ăn phải ăn cả quả ngọt và chua mới ngon, và nhất là không được mang về. Nếu ai mang xoài về, thần núi sẽ làm cho người đó lạc đường, đi mãi cũng quanh quẩn gốc xoài. Khi Hoàng Anh Gia Lai tới, họ muốn cưa hai cây xoài đó đi. Người ta thuê người cưa cây em trước, nhưng lưỡi cưa cứ bị kẹt hoài. (người dân nói, người đi cưa cây sau đó bị điên). Cuối cùng, họ lấy lửa đốt, đem xe cẩu tới múc gốc lên. Cây em chết, cây chị không ra quả nữa. Từ đó cây chị đứng một mình, buồn thiu.
Cây xoài chị bên cạnh gốc xoài em
Cây xoài chị bên cạnh gốc xoài em
Tôi rất tò mò muốn biết cây xoài này thế nào, nên một sáng kêu mấy đứa nhỏ dẫn tôi đi xem. Tuy mùa khô nhưng lòng sông nhiều thác ghềnh, nước chảy xiết, tôi không qua được. Đứng bờ bên này nhìn qua, thấy một cây xoài (không cổ thụ lắm) đứng giữa sông, bên cạnh một cái gốc trơ lên như bộ xương khô, đó là cây em. Dân Phùm Gi không thích ra đây nữa, họ nói nhìn cảnh này đau lòng lắm. Đúng vậy, không đau lòng sao được khi huyền thoại của họ bị nhổ đi, bị phơi nắng phơi sương cho mục nát, phần huyền thoại còn lại sống mà như chết. Người ta đã phá hủy một huyền thoại, cũng là phá hủy cái linh thiêng, cái thẳm sâu nhất trong lòng người Jrai.
Con sông Pa dài 374 km chảy qua ba tỉnh Kontum, Gia Lai, Phú Yên, nhưng lại phải đeo tới năm cái gông thủy điện vào cổ. (Thủy điện Đồng Cam, thủy điện Ba Hạ, thủy điện An Khê, thủy điện Ayun Hạ, thủy điện Ayun Thượng). Bây giờ thêm cái cạnh Phùm Gi này nữa là sáu. Tính ra, trung bình cứ hơn 60 cây số là “bị” một đập. Ngày nay, các nước trên thế giới không “chơi” thủy điện nữa vì nhiều tác hại, đến cả người dân nơi đây cũng biết. Họ thấp thỏm lo sợ tới một ngày mình phải bỏ buôn ra đi vì đập tràn. Và điều đó đã tới trước khi tôi rời nơi đây một tuần.
Thủy điện hoàng anh gia lai bên cạnh bôn Phùm Gi
Thủy điện hoàng anh gia lai bên cạnh bôn Phùm Gi
Dòng sông mùa khô cạn đến mức trâu bò có thể lội qua, nay dâng nước lênh láng tràn bờ. Người ta đã ngăn đập lại. Con đập cách buôn chừng 200 mét nên Phùm Gi gánh chịu hậu quả nặng nề nhất và nhanh nhất của việc ngăn dòng. Nước dâng lên tới sau nhà dân, bò vào vườn tược và gieo rắc nỗi kinh hoàng.
Dòng sông hiền hòa ngày đêm có tiếng thác đổ nay hết rồi.
Những chiều ra sông lấy nước nay cũng hết rồi.
Dòng sông bây giờ là một đường băng nước khổng lồ, dơ bẩn và đục ngầu. Nước đã dâng lên hơn hai mét. Mọi người không còn thấy con sông Pa quen thuộc đâu nữa, mà chỉ thấy một con quái vật lúc nào cũng chực chờ muốn nuốt chửng buôn làng.
Mọi người không còn dám chèo thuyền một mình qua sông lên nương rẫy như lúc trước nữa vì chỉ một sơ suất nhỏ là con thuyền mỏng manh sẽ ụp ngay xuống dòng sông sâu.
Những đứa trẻ cũng sợ ra sông tắm mỗi chiều.
Hết rồi những tảng đá cao cao ngóng mẹ cha.
Hết rồi những bờ cỏ êm mượt như nhung.
Hết thật rồi!
Nhưng điều đáng sợ nhất chính là từ nay, dân làng sẽ không có nước mà uống nữa, kể cả nước sông bị ô nhiễm. Mỗi tối đi dạy, tôi cố gắng chở một bình nước 20 lít qua cho ami H’hot. Biết là nó chẳng thấm vào đâu nhưng vẫn cứ chở. Âu cũng là một giọt nước ngọt giữa lòng biển khơi.
Amai H’ Blan
VRNs (21.07.2012) – Gia Lai
[1] Dam Bo (Jacques Dournes), France – Asie, 1950. Les Populations montagnardes du Sud-Indochinois (Miền đất huyền ảo), Nguyên Ngọc dịch. NXB hội nhà văn, 2003, chương IV.
______________________________________________________
Ước mơ Jrai (11)
Mỗi ngày dạy học là một điều bất ngờ đối với tôi, nhưng điều bất ngờ nhất chính là sự chăm chỉ đến say mê của những đứa học trò. Các em thường đến lớp trước 15, 20 phút xếp bàn ghế, rồi ngồi chờ tới giờ học. Không bao giờ đòi nghỉ nếu tôi chưa cho nghỉ, ngay cả khi học quá giờ cũng không ai lên tiếng. Buôn Phùm Ang cách đó chừng hai cây số cũng qua học ké. Mấy gia đình người Kinh gần đó cũng cho con tới học. Lớp học đã lên tới hơn 50 em rồi. Gian nhà sàn của ami H’hot ban ngày rộng rãi là thế, vậy mà buổi tối cứ chật ních, chật đến mức tối nay trong nhà không còn chỗ ngồi.
Có ba em học trò mới không tìm được chỗ bèn kéo nhau ra hiên. Ngoài hiên không có đèn đóm gì cả, lại dơ bẩn, gồ ghề. Làm sao viết chữ đây? Thế là một trong ba đứa đeo cái đèn soi ếch lên đầu. Hai đứa kia chụm lại. Ba quyển vở được bày ra. Ba thân hình gầy gò nằm bẹp xuống hiên mà viết. Ba cây bút chì khổ sở đưa từng nét chữ. Ba mái đầu khẽ rung theo nhịp thở. Rồi cứ thế cho đến lúc hết giờ. Tôi đã lặng người đi khi nhìn thấy cảnh ấy. Thật không thể tưởng tượng nổi. Ôi, học trò của tôi!
Người ta nói, buôn Phùm Gi khổ thì chẳng ai bằng, mà tình cảm thì cũng không ai hơn. Mà quả đúng là vậy. Một sáng kia thức giấc, tôi còn đang mơ màng thì ngoài cửa có tiếng gọi. Nhìn ra thấy bé H’mái đứng thập thò, tay xách cái bịch nilon. Nó bẽn lẽn chạy lại đưa tôi rồi biến mất. Tôi mở ra xem thì ô kìa, một quả thơm! Có lẽ đó là quả thơm ngon lành nhất, thơm tho nhất và ngọt ngào nhất mà tôi từng nếm. Quả thơm ngon không phải vì quả thơm, mà vì thứ tình cảm lặng lẽ nhưng nồng nàn mà nó chứa đựng. Cám ơn em rất nhiều, H’mái à! Và suốt thời gian tôi dạy học ở đấy, học trò trả “lương” cho tôi bằng những bó lá mì, vài quả xoài, mấy quả dưa, những thứ các em đem về từ nương rẫy xa xôi của mình.
http://www.chuacuuthe.com/images/04186.jpg" border="0" height="522" width="695">
Lớp học
Một hôm, tôi hỏi các em có biết các em đang sống ở nước nào không. Cả lớp im phăng phắc nhìn nhau, phải gợi mãi, cuối cùng một em ngập ngừng nói:
- Nước Việt Nam phải không cô?
Tôi hỏi tiếp:
- Ai biết, trên thế giới còn nước nào khác?
Lần này thì cả lớp hào hứng hẳn lên, rồi một em nhanh miệng nói:
- Dạ, nước sông Pa ạ.
Tôi không tài nào nhịn được cười bởi câu trả lời ngây thơ ấy, nhưng ngẫm lại thì thấy chua xót quá. Buôn làng của các em bị những ngọn núi chất ngất kia bủa vây, cuộc sống của các em chỉ có nương rẫy, trâu bò và dòng sông miệt mài chảy. Mọi biến chuyển của thế giới bên ngoài không lọt tới cuộc sống của các em được. Khi tôi hỏi có ai từng đi du lịch đâu chưa thì nhiều bạn hăng hái nói:
- Dạ rồi cô ơi
- Các em đi đâu?
- Dạ, đi chợ Ia R’siơm
- Có ai đi xa hơn Ia R’siơm chưa?
Không có ai cả. Chuyến du lịch xa nhất của các em chỉ vỏn vẹn có 12 cây số cả đi và về. Nơi đó không phải là danh lam thắng cảnh mà chỉ là một cái chợ nhỏ lèo tèo vài hàng quán thông thường. Nhưng với các em, được đi Ia R’siơm đã là một niềm hạnh phúc lớn. Cũng vì ít tiếp xúc với thế giới bên ngoài, mà các em sợ tất cả những gì mới lạ. Hôm tôi đem laptop đến chiếu phim cho cả lớp xem, nhiều bạn rón rén tới đụng cái máy rồi chạy ra xa như sợ cái máy đuổi theo, nhìn không khác gì nhân vật Xi[1] trong bộ phim “Thượng đế cũng phải cười”. Học trò của tôi là thế đấy, hồn nhiên và thật thà như khi tôi hỏi ước mơ của các em là gì. Một nửa lớp muốn trồng lúa, trồng mì khi lớn lên, số khác thích đi bảo vệ rừng, đi đánh cá, nhưng cũng có ước mơ làm cô giáo, làm người bốc thuốc. Các em không dám mơ ước những điều to tát, chỉ rụt rè đưa ra những khát khao khiêm tốn vì các em biết các em là ai, đang ở đâu trong xã hội này.
http://www.chuacuuthe.com/images/02407.jpg" border="0" height="522" width="695">
Đãi học trò dưa hấu
Tuy rằng, Giáo Hội giúp đỡ rất nhiệt tình trong việc học hành của con em Jrai nhưng kết quả chẳng đáng là bao. Tại mỗi nhà thờ đều có nhận nuôi học sinh Jrai, người ta hay gọi là đệ tử. Các em sẽ ở đó để đi học. Chuyện ăn ở hoàn toàn miễn phí, gia đình không phải lo. Thế nhưng, mặc cho các cha nuôi đệ tử hơn nửa thế kỷ qua, thì vẫn chưa có một linh mục nào người Jrai, và rất ít đệ tử học hành thành tài. Điều này buộc Giáo Hội phải tìm kiếm một giải pháp khác hiệu quả hơn, bền vững hơn. Việc dạy hè cho học sinh Jrai như tôi đang làm, cũng chỉ là giải pháp chữa cháy. Làm sao trong một hai tháng có thể vực dậy học lực yếu của một em lớp bảy? Đó là một quá trình dạy dỗ lâu dài trong khi tôi chỉ ở được có một thời gian. Bao giờ người ta cũng phải tốn nhiều công sức hơn để uốn nắn một cây đã trồng sai. Chi bằng, hãy trồng đúng ngay từ đầu.
http://www.chuacuuthe.com/images/011299.jpg" border="0" height="522" width="695">
Thăm học trò bệnh
Học sinh Jrai thường học hết cấp một là nghỉ. Động viên mãi thì học hết cấp hai. ai bền chí lắm mới tới lớp 12 được, và phần lớn gãy gánh giữa đường vì không thi đậu tốt nghiệp. Hiếm có gia đình nào con cái vào được đại học. Thời gian tôi ở Krông Pa, cũng là thời gian diễn ra kỳ thi tốt nghiệp cấp ba. Nhà ami H’noel có đứa con gái cũng đi thi. Kỳ thi này, cả buôn Nu có hai người đậu. Khi biết tin con đậu, ami giết ngay một con heo ăn mừng vì đây là điều trọng đại. Đó mới chỉ là thi tốt nghiệp thôi nhé. Còn thi đại học, cao đẳng nữa. Nếu con cái người Kinh phải học gấp mười lần để vào được đại học, thì con cái người Jrai phải cố gắng một trăm lần mới mong là sinh viên. Chỉ đến khi dạy các em, tôi mới vỡ lẽ ra tại sao học trò Jrai phải đổ nhiều công sức như vậy.
http://www.chuacuuthe.com/images/06105.jpg" border="0" height="522" width="695">
Cặm cụi viết
Học trò lớp lớn của tôi, thấp nhất cũng học tới lớp ba, và cao nhất là lớp bảy. Tôi không thể tưởng tượng được một học sinh lớp sáu mà không biết 7 + 8 bằng bao nhiêu. Phép cộng là phép căn bản nhất, và phép cộng một chữ số là phép tính dễ nhất trong mọi phép tính, vậy mà học trò của tôi không cộng nổi. Các em cũng không đọc viết thành thạo được. Mỗi lần đọc bài cho các em viết, tôi phải đánh vần từng chữ một. Tại sao một em học sinh lớp bảy mà không biết 12 – 8 bằng bao nhiêu, không viết được một câu ra hồn và đọc thì ấm ớ? Ở trường người ta dạy em cái quái gì vậy? Tôi không ngờ, thật sự không thể ngờ. Chẳng lẽ lại đúng như lời H’nhao nói: “Em học lớp 12 rồi mà còn không thạo nhân chia nữa chị ơi”. Trời ơi! Họ dạy cái gì trong 12 năm học của em?
Những bất đồng về ngôn ngữ, về văn hóa và cách suy nghĩ trở thành rào cản cho các em trong việc học. Một đứa bé Jrai vào lớp một, nghe thầy cô người Kinh nói, sẽ chẳng hiểu gì hết. Phải vài năm sau, khi nó nghe tiếng Kinh quen rồi thì nó mới biết thầy cô nói gì. Nhưng lúc này, nó đã lên tới lớp ba lớp bốn, mọi điều thầy cô nói về kiến thức nó không hiểu gì cả. Nó bắt đầu chán ngán, không muốn học, thích nói chuyện, quậy phá. Thầy cô la mắng. Bạn bè khinh chê. Nó thấy học thật là mệt nhọc và nó nghỉ dễ dàng. Người ta không thể xây một ngôi nhà cao tầng nếu chân móng yếu, trước sau gì nó cũng sụp đổ mà thôi. Những ngày dạy các em, tôi thấy rõ sự tiến bộ của nhiều em. Điều đó cho thấy không phải các em không có khả năng học, mà quan trọng là ở người thầy. Nếu nhà nước đã nhận lấy trách nhiệm giáo dục cho người Jrai, thì phải xây dựng một phương pháp giáo dục phù hợp cho họ. Vì mỗi dân tộc là một sự khác biệt nên anh không thể chơi kiểu “cá mè một lứa” như bây giờ được. Còn nếu không, người ta sẽ nói anh là kẻ không biết dạy, nói tắt là kẻ mất dạy. Cho dù nhà nước có xây trường, có đưa giáo viên đến dạy, có miễn giảm học phí tùm lum thì tất cả những thứ đó chỉ là vỏ bọc bên ngoài để chụp hình đăng báo, còn thực chất bên trong thì rỗng tếch. Đừng nói với tôi về những chính sách này nọ của giáo dục. Đừng nói với tôi về chương trình, dự án hay những chiến lược giáo dục. Hãy đến mà xem học trò của tôi đi. Hãy đến mà hỏi học trò của tôi đi. Hãy đến mà dạy học trò của tôi đi. Lúc đó, sẽ tự có câu trả lời cho các vấn đề giáo dục.
http://www.chuacuuthe.com/images/0762.jpg" border="0" height="522" width="695">
Chia quần áo cho học trò
Tôi đem chuyện kể cho ama nghe. Nghe xong, ama chỉ cười bảo: “Chính sách hết đấy con ơi. Người ta đâu có muốn người Jrai giỏi”.
Tôi sẽ không thắc mắc tại sao người Jrai cứ nợ nần mãi nữa, vì họ có được dạy tính toán đâu.
Tôi sẽ không dò hỏi tại sao người Jrai lại bán hết đất đai màu mỡ cho người Kinh nữa, vì họ có biết giá trị là gì đâu.
Tôi sẽ không nghẹn ngào tại sao học trò của tôi lại học kém như thế, vì các em có được dạy dỗ đâu.
Tôi không đổ lỗi cho các em, vì các em chỉ là những tờ giấy trắng. Người ta có viết gì lên đó đâu mà hy vọng các em có chữ nghĩa. Nếu nền giáo dục Việt Nam không thể dạy cho một học sinh lớp sáu người Jrai biết 15 – 8 bằng bao nhiêu thì đây chỉ là một nền giáo dục tồi. Ôi, một đất nước chỉ mới đây thôi tự hào là quốc gia đoạt giải Nobel toán học mà dân chúng thì chẳng biết 4 + 7 bằng bao nhiêu.
Nhưng điều ê chề nhất của tôi không phải là học trò của tôi dốt, mà là tôi không hiểu nổi tại sao các em có thể lên lớp đều đều như thế được. Năm năm, sáu năm hay 12 năm ngồi trên ghế nhà trường của các em hình như chẳng có chút nghĩa lý gì với chúng tôi hay sao mà chúng tôi lại có thể cướp của các em bao nhiêu đó thời gian và trả lại cho các em một nhúm những con số vô hồn, vất vưởng và chữ viết nghệch ngoạc, sai lầm. Bao nhiêu đó thời gian để đổi lấy bấy nhiêu chữ nghĩa thật là một cái giá quá đắt. Đau lắm Jrai ơi! Tôi không trách các em đâu. Tôi thương các em vô cùng, và càng dạy các em thì tôi càng nhói đau trong tim. Tôi không khinh khi chê bai các em điều gì cả, nhưng tôi cảm thấy người Kinh của tôi nợ các em rất nhiều.
Người Kinh chúng tôi nợ các em, và các thầy cô giáo dạy dỗ các em phải là người gánh lấy sự bất hạnh và ngu dốt của các em. Họ cũng phải là người phải trả nợ cho những đau khổ và lạc hậu của dân tộc các em. Khốn thay những người làm giáo dục mà không giáo dục, vì họ sẽ phải hứng chịu lấy tất cả những tang thương và điêu linh của nhiều thế hệ về sau. Làm sao tôi có thể kể cho các em biết rằng người Kinh của chúng tôi đang giết chết dân tộc các em từng ngày từng giờ. Chúng tôi giết các em ngay trong những buổi học, giết các em trong những con chữ, giết các em bằng sự dễ dãi lên lớp và ru ngủ cả một thế hệ bằng ảo tưởng văn minh.
Jrai ơi, tôi chỉ là một người khách qua đường, dừng chân nơi đây một thời gian, dạy dăm ba chữ cho các em như một làn gió. Trước khi lên đây, tôi vạch ra không biết bao nhiêu điều muốn dạy cho các em. Nhưng bây giờ tôi chỉ còn một ước muốn nhỏ nhoi là các em sẽ biết cộng trừ nhân chia, biết viết tên của mình khi người ta hỏi. Tôi không dám mong các em sẽ tiếp thu được tất cả những gì tôi nói. Tôi chỉ xin bỏ một viên sỏi vào trong túi của các em, để một ngày nào đó, sau nhiều cố gắng, các em có một túi sỏi khôn để sử dụng trong đời. Các em sẽ biết đọc, biết viết, biết số bảy lớn hơn số sáu và nhỏ hơn số tám để khi bán hột đào, các em không bị người ta lừa lọc nữa. Tôi chỉ mong có thế thôi.
Amai H’ Blan
VRNs (22.07.2012) – Gia Lai
[1] Một thổ dân người Sho sống trên sa mạc Kalahari. Đạo diễn Jamie Uys, 1980. The God Must Be Crazy.
______________________________________________________
Rừng thiêng nước độc (12)
Trước khi qua Phùm Gi dạy học, tôi đã thích nghi được với môi trường nơi đây, đã quen với cái nắng cháy da và cách sinh hoạt của người Jrai. Nhưng cuộc sống ở Phùm Gi lại là một cuộc sống hoàn toàn khác.
Ở Phùm Gi, người ta tắm ngoài sông Pa. Họ mang theo quần áo để thay, xà bông để giặt và những quả bầu khô để lấy nước. Tắm xong, phụ nữ thường thay đồ ngay tại bờ sông nhưng rất kín đáo. Họ dùng ngay cái bành eng (cái váy) mà mình sẽ mặc lồng vào người, và cứ thế từ từ trút quần áo ướt ra. Đồ dơ giặt tại bờ sông, xong xuôi đem về nhà phơi mà thôi. Lần đầu tắm ở đây tôi không biết. Chẳng mang quần áo theo, cứ thế nhảy xuống sông. Lúc lên thấy người ta thay đồ tại chỗ mới té ngửa. Tôi chạy về nhà ami H’hot thay đồ xong lại phải chạy ra sông giặt đồ vì nhà ami chỉ đựng nước trong mấy quả bầu, nước này dùng uống và nấu ăn thôi. Cũng vì tắm nước sông Pa mà tối hôm đó tôi bị dị ứng, nổi mẩn đỏ khắp người, ngứa ngáy khó chịu vô cùng. Đời tôi chưa biết thế nào là dị ứng. Đây là lần đầu tiên nên cũng hơi sợ. Tôi liền gọi điện cho anh bạn bác sĩ nhờ chữa bệnh từ xa. Anh khuyên không nên tắm sông nữa và phải chú ý cách sinh hoạt của người dân. Thế là từ hôm đó tới cuối tuần, tất cả là năm ngày, tôi không được tắm. (Vậy mà chiều nào cũng ra sông nhìn người ta tắm mới…ngứa ngáy chứ). Phải công nhận rằng ở dơ là một cảm giác rất stress. Đến khi về lại nhà ama, việc đầu tiên tôi làm là đi tắm một cái cho nhẹ người. Như thế, đủ biết nước sông bên Phùm Gi đã không còn trong sạch nữa rồi, vì bên nhà ama, tôi cũng tắm ngoài sông pa mà có bị gì đâu.
Cũng liên quan đến nước, mà hôm sau tôi bị tiêu chảy một trận. Chuyện là người Jrai sau khi lấy nước từ sông về, không nấu nướng chi hết, cứ để nguyên trong trái bầu, khi nào uống thì mở nắp ra tu một hơi no bụng thì thôi. Người lớn con nít đều uống thế cả. Nước tôi mang theo hết sạch. Giờ khát quá, tôi cũng bắt chước bọn trẻ uống một ngụm. Uống xong chừng một tiếng sau là biết lợi hại của Phùm Gi liền. Tào Tháo rượt sau lưng chạy không kịp. Khổ nỗi, nhà của người Jrai không có toilet. Với họ, cả đất trời là nhà vệ sinh. Tôi loay hoay mãi mới tìm được một lùm cây, vừa ngồi xuống thì ôi thôi, một đàn heo không biết từ đâu ào tới. May mà chưa bị chúng húc.
Thấy uống nước sống không được, tôi bèn đun nước sôi uống cho an toàn. Sau một ngày uống nước đun sôi, tưởng là đảm bảo rồi, thì một sớm mai thức dậy, cả người tôi cứng đơ như đổ bêtông. Bàn tay sưng phù và cầm cái gì cũng không thật. Các khớp đau nhức như vừa bị một trận đánh tơi bời. Hoảng quá, tôi lại gọi điện cho anh bạn bác sĩ. Anh nói rằng có thể tôi bị ngộ độc chì hoặc viêm nhiễm hô hấp, tốt nhất là không nên uống nước đó nữa. Mặc dù tôi đã đun sôi nhưng những hợp chất kim loại nặng vẫn còn trong nước. Người trong buôn uống quen rồi thì không sao, chứ cơ thể người nơi khác tới chắc chắn sẽ phản ứng chống lại. Anh bạn nhắn cho tôi một toa thuốc nói ngày uống hai lần. Tôi gọi điện cho anh Wiêng nhờ anh mua thuốc và nhờ chở ra Phùm Gi cho tôi một thùng nước giếng. Nhưng ở Ia R’sươm không có đầy đủ những thứ thuốc như anh bạn bác sĩ dặn, tôi đành phải uống tạm vậy.
Kết quả của việc uống tạm là tôi bị sốc thuốc. Người tôi co giật từng cơn, bệnh tình cón trầm trọng hơn cả trước khi uống. Thấy thế, tôi không uống thuốc nữa, mà cố gắng uống thật nhiều nước để thải chất độc ra ngoài. Nhưng ngay cả khi đã uống rất nhiều nước, cơ thể tôi vẫn nóng bừng bừng, cổ họng lúc nào cũng khô ran, đau rát. Đôi môi nứt nẻ. Da dẻ xù xì, trông thảm hại vô cùng. Thêm vào đó, nhà sàn của ami H’hot mái rất thấp, cái nóng ban trưa đổ xuống không khác gì một lò nướng. Mấy ngày sau tôi sốt mê man từ sáng đến trưa, từ trưa đến tối, lúc nào cũng thấy hừng hực, chẳng biết nóng từ trong người phát ra hay từ mái tôn dội xuống.
Tôi không dám nói cho ami H’hot biết là tôi bị đau để ami H’hot khỏi lo lắng. Chính ami cũng đang bị đau tùm lum, chẳng nên để ami phải gánh thêm cái đau của tôi làm gì. Ami thương tôi lắm, nên trước khi đi làm, ami nấu cho tôi một nồi cơm, chiên thêm trái trứng gà để đấy rồi đi làm tới chiều mới về. Tôi ở nhà một mình. Cô đơn và buồn bã. Bệnh tình khiến cổ tôi đau rát, miệng nhạt nhẽo chẳng muốn ăn gì, gặp cơm khô rời rạc không tài nào nuốt đi được. May mà hôm qua đây, tôi mang theo hũ muối mè. Vậy là suốt mấy ngày bệnh, tôi chấm cơm với muối mè ăn qua ngày.
Buổi tối tôi vẫn dạy học bình thường nhưng bệnh tình khiến tôi có lúc không chu toàn trách nhiệm được. Có hôm mệt quá, tôi cho nghỉ sinh hoạt. Bọn trẻ đứng tần ngần dưới sân ngóng lên một hồi rồi lặng lẽ ra về. Tôi cảm giác mình vừa rút lại món quà đã hứa cho các em. Tôi giận mình yếu ớt không có được sức khỏe dẻo dai để phục vụ và càng buồn về sự ngu dốt của mình. Tôi nghiệm ra một điều (dù muộn màng) rằng, nếu muốn giúp người khác, chính mình phải được đào tạo kỹ càng từ kiến thức chuyên môn đến kỹ năng sống, đặc biệt hiểu biết về y tế . Còn không, thì vô tình lại trở thành gánh nặng cho họ.
Chỉ khi ở chung với người dân, ăn uống và sinh hoạt cùng họ, tôi mới hiểu tại sao trong buôn lại không có người già. Cuộc sống cơ cực thế này, ăn uống kham khổ như vậy và nguồn nước ô nhiễm thì chưa già người ta đã chết hết rồi. Không chỉ riêng Phùm Gi, mà tất cả những buôn tôi đi qua, ai cũng than thở những thứ bệnh giống nhau. Nhiều nhất là đau khớp, đau thận và dạ dày. Tất nhiên, rồi ai cũng phải chết, nhưng những căn bệnh này sẽ hành hạ họ một thời gian dài trước khi họ khuất núi. Tội nhất là những đứa trẻ, phải chịu cảnh mồ côi cha hoặc mẹ sớm. Lớn lên, chúng thiếu thốn tình thương như những cái cây bật gốc, trôi lềnh bềnh giữa dòng đời xô đẩy mà chẳng biết rồi sẽ về đâu.
Cuối tuần tôi về lại nhà ama nghỉ ngơi lấy sức. Những bệnh mà tôi gặp phải đủ để thấm thía cụm từ “rừng thiêng nước độc”. Trong một môi trường sống khắc nghiệt như thế này, mà những người Jrai vẫn sống hằng ngàn năm qua, đủ để thấy rằng ông trời đã ban tặng cho họ một thể chất đề kháng mạnh biết dường nào. Tôi yếu đuối mỏng giòn chỉ trụ lại trong buôn được một tuần nhưng đã được nếm trải đủ hương vị cuộc sống người dân. Tự dưng chạnh lòng nghĩ đến những vị thừa sai đầu tiên đặt chân lên vùng cao nguyên này. Trong thiên bút ký nổi tiếng “Dân làng hồ”, cha Dourisboure đã tả lại những thử thách gian lao của một người thừa sai. Nhiều người đã chết nhanh chóng vì kiết lỵ, vì sốt rét rừng và đủ thứ bệnh tật khác[1]. So với các ngài, những điều tôi gặp phải chỉ là hạt cát trong đại dương mênh mông. Kể ra đây chỉ thấy hổ thẹn mà thôi. Ngay cả ama Gioan cũng đã “xuống sắc” nhanh chóng kể từ khi về đây. Khi nhìn thấy tôi có vẻ “thân tàn ma dại” thì ama cũng hoảng sợ. Ama nói tôi ở đây dưỡng bệnh khi nào khỏe hẳn rồi qua đó ở tiếp cũng được, phải dành sức chạy đường dài chứ. Tôi thấy trong người không ổn thiệt nên đồng ý ở lại. Ama đùa mà rằng: “Hay bây giờ con làm di chúc đi, nói rằng nếu tôi chết thì chôn tôi ở Phùm Gi, kẻo lỡ có mệnh hệ gì thì ama còn biết đường ăn nói với gia đình con”.
Tất nhiên tôi không làm di chúc nhưng nhờ trận bệnh ấy mà tôi có thêm người bạn đồng hành, H’chan. H’chan là em họ của anh Wiêng. Nhà ở buôn Toát, gần chợ Ia R’siơm. Nàng có gương mặt đặc trưng của người Jrai, mắt to u buồn và hàng chân mày rậm, nước da trắng chứng tỏ không phải làm việc nương rẫy. Quả đúng thế, H’chan vừa tốt nghiệp Trung cấp Sư phạm ngoài Quảng Nam (điều hiếm hoi nơi người Jrai), đang trong thời gian tìm việc nên rảnh rỗi. Nghe anh Wiêng nói ngoài Phùm Gi cần người dạy nàng đồng ý giúp liền. Thế là từ đó, cứ tối tối, tôi và H’chan chạy xe ra Phùm Gi dạy học, chừng 10 giờ khuya lại lóc cóc chạy xe về. Tôi không sợ những nấm mồ trắng hếu nằm cạnh đường, nhưng sợ cái quán nhậu trước cổng Hoàng Anh Gia Lai, vì tối nào ở đó người ta cũng say khướt, lỡ có ai chặn đường hai đứa tôi thì chỉ trời mới biết. Chắc cũng vì sợ quãng đường vắng vẻ, nguy hiểm đó mà mẹ H’chan không vui, và bạn ấy chỉ đi cùng với tôi được một tuần. Những ngày sau, tôi phải xoay xở một mình hai lớp. Hôm nào mệt quá, tôi rủ H’nhao đi cùng để đứng lớp nhỏ dùm tôi. Đi đi về về kiểu này có vẻ khỏe hơn cho tôi, nhưng tôi sẽ không có nhiều thời gian ở bên cạnh những đứa học trò của tôi.
Tôi chỉ tính ở lại nhà ama một tuần thôi, nhưng không ngờ bệnh tình dai dẳng đến hai tuần vẫn không khỏi. Đến khi tôi bình phục và chuẩn bị quay lại Phùm Gi thì ba thầy dưới Sài Gòn lên. Cũng từ đó, tôi bị buộc cẳng ở Ia Rsiơm cho tới lúc về.
Amai H’ B'lan
VRNs (23.07.2012) - Gia Lai
______________________________________________________
Giúp cả đời (13)
Ba thầy Vinh Sơn, Phaolô và Giuse đến Ia R’siơm vào một buổi sáng đầu tháng bảy.
Các thầy sẽ giúp kỹ năng sinh hoạt cho các bạn trẻ của hơn 40 buôn làng vì ama muốn tổ chức một hội trại vào cuối tháng này. Đây sẽ là hội trại đầu tiên của giới trẻ Krông Pa, một ngày hội hứa hẹn nhiều nối kết và được hầu hết các bạn trẻ mong chờ. Khóa học kéo dài trong vòng một tuần. Một ngày học hai buổi sáng chiều. Từ các buôn làng xa xôi trong Chư Gu, Chư Ngọc, cách Ia R’siơm hơn 30 cây số, các bạn cũng lặn lội về học. Mỗi buôn sẽ cử ra hai bạn sáng giá nhất đến học. Sau đó các bạn trở về dạy lại cho các bạn trong buôn những điều mình đã được dạy. Vào ngày diễn ra hội trại, chính các bạn trẻ Jrai sẽ tự tổ chức cho mình những ngày vui chơi, còn các thầy chỉ đóng vai trò cố vấn từ xa.
Ngày khai giảng khóa học, các bạn đến nhà ama trước cả tiếng đồng hồ. Ngôi nhà nguyện thường ngày rộng là thế, bây giờ trở nên chật hẹp quá sức. Vả lại, nếu dạy kỹ năng sinh hoạt ở đây, e rằng sập nhà mất, nên thầy trò rủ nhau ra gốc me gần bờ sông học, vừa mát, vừa rộng rãi, tha hồ vui chơi mà không sợ làm phiền đến ai. Tự nhiên, tôi nhớ đến cha Don Bosco, người đã dám đứng ra bảo lãnh cho một nhóm thanh thiếu niên phạm pháp được đi du ngoạn, vui chơi thỏa chí một ngày. Cha thấy rằng không được vận động là hình phạt nặng nề nhất đối với các bạn trẻ. Cha cam kết nếu thiếu một ai, chính cha sẽ vào tù ngồi thay. Buổi dã ngoại diễn ra tốt đẹp cho tới giờ chuẩn bị trở lại trại giam thì tự dưng một bạn “chướng” lên bỏ trốn. Cha Don Bosco giữ lời hứa, sắp sửa vào tù ở thì thời may, người yêu của anh chàng kia thuyết phục được anh ta quay trở lại. Sau chuyện đó, cha chiếm được cảm tình của tất cả thanh thiếu niên vùng Tôrinô nước Ý. Điều đó cho thấy, vui chơi là con đường dễ gắn kết người với người nhất, đặc biệt là giới trẻ. Mà với người trẻ Jrai thì điều đó càng hấp dẫn, vì người Jrai coi tuổi thanh niên (người chưa có vợ) là tuổi chơi bời, thích làm gì thì làm, được tự do như gió.
Trước khi lên Krông Pa, các thầy đã lên một chương trình sẽ dạy gì, ai phụ trách, khi nào, giờ nào…rất hoành tráng. Chỉ cần đọc qua bảng kế hoạch đã thấy thú vị rồi. Thế nhưng, giới trẻ Jrai không phải là giới trẻ người Kinh. Đem áp dụng những bài học của người Kinh vào Jrai trật bài là cái chắc. (Những người lên làm việc trên đây, ban đầu bao giờ cũng mắc cái tật này). Ví dụ như học mật thư, các bạn Jrai phải mất cả buổi để viết đúng 24 chữ cái trong khi thời gian cho có năm phút. Thấy không ổn, ngày hôm sau, các thầy đổi chiến thuật ngay. Thay vì ép các bạn phải dùng chất xám nhiều thì cho các bạn vận động, vui chơi trước, rồi đưa những bài học vào từ từ. (Tất nhiên là ở cấp độ dễ hơn so với dự kiến). Cách làm này có hiệu quả ngay vì hôm sau tới giờ ăn cơm mà thầy trò còn mải mê ngoài gốc me.
Cũng từ ngày bắt đầu khóa học, tôi trở thành chị nuôi bất đắc dĩ. Ama giao hẳn chuyện cơm nước cho tôi và dặn thêm: “Con muốn nấu gì cũng được nhưng không được để thầy trò sút ký”. (Ama ơi, con không dám đảm bảo điều này đâu vì sau một tháng, mặc cho con ra sức chăm sóc, thầy nào sút ít là hai ký, nhiều tới năm ký). Làm sao để bữa ăn vừa ngon, vừa rẻ, lại vừa tươm tất thật không dễ. May mà trong số ba thầy, có một thầy là đầu bếp chính hiệu, nên tôi được giúp đỡ rất nhiều. Trước đây, nhà chỉ có hai cha con, đi chợ một ngày ăn mấy ngày cũng chưa hết. Bây giờ, mỗi lần đi chợ, phải có một thầy đi cùng với tôi để khiêng đồ, và nhất là phải mang theo điện thoại để cập nhật tình hình nhân khẩu liên tục. Khi khóa học vừa kết thúc thì ama khởi công làm nhà mái vòm. Mọi người trong buôn, từ con nít, đàn ông, phụ nữ đến cả bà bầu cũng đến giúp ama dựng nhà. Giờ đây, số người ăn cơm còn đông hơn trước, có ngày lên tới 70 người. Vì công việc nặng nhọc, nên tôi nấu thêm bữa lỡ cho mọi người ăn có sức. Thường thì bữa lỡ tôi hay nấu chè: chè đậu xanh, đậu đen, đậu đỏ…. Tóm lại là đủ các thứ chè mà tôi có thể nghĩ ra. Khi việc làm nhà ama tương đối ổn rồi thì đội đánh cồng chiêng tới, gần 20 em. Các em sẽ ở nhà ama tập tành để cuối tháng tham dự lễ hội cồng chiêng ngoài Plei Chuet. Trung bình mỗi bữa tôi nấu ăn cho 30 người, mỗi ngày nấu hai lần. Có nấu ăn mới thấy đây không hề là công việc đơn giản. Dù là đi ăn ngoài tiệm, trả tiền đàng hoàng, thì cũng nên cám ơn người nấu cho ta ăn. Như thế, cả tháng bảy, công việc bếp núc chiếm trọn thời gian một ngày của tôi từ sáng cho đến chiều. Tối đến, tôi ra Phùm Gi dạy. Ba thầy chia nhau, mỗi ngày một người đứng lớp cùng tôi. Được nhìn đám học trò cười nói, bao nhiêu mệt nhọc như tan biến. Phải công nhận ông trời đã rất hào phóng và công bằng với tôi.
Từ khi các thầy đến, nhà bếp trước kia bây giờ dọn lại thành phòng ở cho các thầy. Tôi mượn tạm góc sân nhà ami H’sieng (cạnh nhà ama) làm nơi nấu nướng. Ở đó có một cây vú sữa già tán râm mát, tôi bắc vài hòn đá lên làm bếp. Ở đây không thiếu củi. Chỉ có điều củi của người Jrai to như cột nhà, muốn có củi thổi, phải cưa ra từng khúc, rồi dùng rùi chẻ nhỏ ra, rất vất vả. Sau này mấy thầy kiêm công việc bổ củi, coi như tập thể dục buổi sáng. Cũng vì nấu ăn ngoài trời dã chiến như vậy, nên có lần cơm đang sôi thì đột nhiên trời mưa. Ai nấy cuống cuồng đi tìm áo mưa che cho bếp khỏi tắt, lúc nhìn lại mình thì đã ướt mem. Nhà ama chưa sắm xoong chảo lớn, tôi bèn mượn nồi mấy nhà quen trong làng nấu đỡ. Có hôm đang đang nấu canh giữa chừng thì người ta tới nói: “Amai Thu, cho mình lấy cái nồi về nấu cám heo”. Chả là, chỉ có nồi cám heo mới to, mới nấu đủ cho mọi người ăn. Góc sân nhà ama có một cây xoài, chúng tôi trải bạt ở đó, cha con, thầy trò ngồi ăn dưới bóng cây. Thi thoảng gió nổi lên, thổi đất cát bám đầy đồ ăn, nhai miếng nào da gà nổi lên tới đó. Có thế mới thấy quý một cái bàn ăn, một cái bếp, một cái nồi.
Biết nhà ama nhiều người, các ami trong làng chia nhau tới giúp tôi nấu ăn. Người nhặt rau, vo gạo, đâm nước mắm…nhưng không bao giờ nấu. Họ nói họ nấu không ngon. Sau này tôi biết là các ami khiêm tốn mà thôi. Ngày nào họ cũng tới và cũng nhờ vậy mà tôi biết rằng người Jrai rất tự trọng. Hôm ấy có một vị ân nhân dưới Sài Gòn lên đem theo nhiều quần áo, bao to, bao nhỏ đủ cả, toàn quần áo đẹp thôi. Mấy thợ xây người Kinh thấy quần áo đẹp liền tới xin ama. Người ta xin chẳng lẽ mình không cho, thế cũng kỳ, ama gật đầu. Thế là mấy ông thợ xây qua hốt nguyên một bao quần áo đem về, hả hê sung sướng. Người Jrai cũng tới nhà ama, thấy quần áo đầy ra đấy nhưng không bao giờ xin. Dù họ mặc áo rách tả tơi họ cũng không bao giờ xin. Trong xã hội Jrai trước đây, không một ai bị bỏ rơi nên không cần tới nhà tế bần hay trại mồ côi. Người ta không có những câu ca dao hay ho như: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng” như người Kinh, nhưng người ta đã sống tinh thần đoàn kết triệt để hơn mọi câu ca dao. Cho nên, cái nghề mà người Jrai xấu hổ nhất chính là nghề ăn xin.
Bên Phùm Gi, tôi dạy được một tuần thì phát hiện ra trong lớp nhiều em chỉ có một bộ đồ. Tôi bèn chở hai bao quần áo qua đó. Học xong, tôi đổ quần áo ra giữa nhà cho các em tha hồ chọn lựa. Trong số các học trò lấy đồ hôm đó, có một em gái tên là H’tuyên. Em rất thích các bộ đồ tôi mang tới và vì em thử cái nào cũng đẹp, cũng vừa vặn, nên em lấy nhiều hơn các bạn khác. Nhưng kể từ hôm sau, em không tới lớp nữa. Dò hỏi mãi, tôi mới biết người trong buôn nói em thế này: “H’tuyên, sao mày lấy đồ nhiều thế? Mày không để cho người khác mặc à?”. Câu nói ấy tới tai bố mẹ H’tuyên. Họ cảm thấy nhục nhã nên cấm không cho H’tuyên đi học nữa. Đây là bài học đắt giá tôi không bao giờ quên vì của cho không quan trọng bằng cách cho.
Cũng vì tự trọng cao mà người Jrai rất dễ tự ái. Bạn có thể gọi họ bằng bất cứ tên gì như người Thượng, người Jrai, người sắc tộc hay người đồng bào đều được. Nhưng chớ dại gọi họ là người dân tộc. Chỉ cần một câu nói ấy thôi, cái nhìn của họ về bạn khác liền. Họ cảm thấy bị khinh khi, bị chạm tự ái. Cái tính tự ái này ai cũng có nhưng nó đặc biệt mạnh nơi người Jrai. Mà đã tự ái rồi thì họ không màng chi nữa, không giải thích gì cả, tình cảm từ nay chấm hết. Một em học sinh nội trú Jrai, nếu bị la vô cớ, sẽ bỏ về nhà ngay mặc kệ đêm khuya hay đường sá xa xôi. Người Jrai không thích nói nặng. Nếu muốn sửa dạy điều gì, hãy nói nhẹ nhàng, họ sẽ nghe. Ai càng quát mắng, la lối thì họ càng im lặng và đóng tai lại. Có thể xem họ như cái bóng đèn để rồi có muốn lau chùi vết bẩn thì hãy lau cho thật êm ái, dịu dàng. Còn nếu không, cái bóng đèn đó sẽ vỡ ngay và làm tổn thương cả người giúp nó.
Ai có lòng muốn giúp người Jrai, phải thật sự kiên nhẫn, còn nếu không, lòng nhiệt tình chỉ làm bạn mệt mà thôi. Hôm nay bạn chỉ cho họ trải bạt ăn như thế này, giờ này, ở đây…nhưng hôm sau là họ quên ngay, họ sẽ trải theo ý của họ và mọi sự hỏng bét. Cho nên, phải nhắc liên tục, nhắc đến khi trở thành thói quen thì thôi. Người Jrai không để ý lắm tới những điều bạn nói, trừ phi bạn vừa nói vừa làm. Nếu bạn nói: “ Mọi người hãy trồng rau xanh đi, vừa đỡ tốn tiền, lại đảm bảo không thuốc sâu” thì chẳng ai làm đâu. Bạn phải đích thân trồng một vườn rau, người Jrai tận mắt nhìn thấy. Sau đó bạn tặng rau cho họ. Họ ăn thấy ngon lúc đó tức khắc họ sẽ trồng. Mà đã trồng là cả buôn đều trồng, nhà nào cũng có. Thế nên, muốn thay đổi điều gì nơi người Jrai, người giúp phải xắn tay áo lên mà làm và phải giúp lâu, giúp dài, giúp cả đời mới mong thấy kết quả.
Amai H’ Blan
VRNs (24.07.2012) – Gia Lai
______________________________________________________
Không sao đâu (14)
Chỉ còn một ngày nữa là tới hội trại.
Từ đầu tuần, dưới Sài Gòn chuyển lên cho ama tivi, đầu máy, băng đĩa và đủ thứ dụng cụ khác để chơi một hội trại ra trò. Trong buôn, tối nào các bạn cũng kéo nhau tới nhà ama tập duyệt văn nghệ, hát hò tới khuya. Càng gần tới ngày, ba thầy càng bận rộn, phải chỉ cho nhóm này làm lều trại, hướng dẫn nhóm kia cách tập trung. Để cho chắc chắn ngày hội các bạn tự điều khiển được cuộc chơi, ba thầy phân chia nhau vào từng làng, hướng dẫn cặn kẽ những kỹ năng. Đám thợ xây phải làm việc ngày đêm cho xong nhà vòm để tới ngày hội có chỗ cho các bạn ngủ. Hội trại sẽ diễn ra trong ba ngày. Ngày kết thúc nhằm ngày mừng kính thánh Anphongso (01.08), quan thầy của giới trẻ Krông Pa. Dự kiến khoảng 500 – 600 bạn trẻ tham dự. Tôi lên sẵn thực đơn cho ba ngày, đặt hàng rau củ quả đâu vào đấy, ngày hội họ chỉ việc chở tới. Thanh niên trong làng kéo tới bổ củi, lợp mái bếp, thích nhất là họ đem tới cho tôi thêm năm cái nồi nấu cám heo phòng khi người ta đòi. Các ami lôi bát đũa chén đĩa ra rửa sạch sẽ, gác lên kệ đàng hoàng. Không khí rôm rả đến nỗi người già trong làng cũng xin chơi ké. Mọi sự đã sẵn sàng. Thì đùng một cái, tất cả đều tan thành số không tròn trĩnh.
Chiều hôm ấy, tôi ra Phùm Gi từ lúc bốn giờ, cố gắng làm cho xong vườn rau trước khi về lại Sài Gòn. Chập tối, thầy Vinh Sơn gọi điện báo:
- Chính quyền cấm không cho tổ chức trại rồi em ơi.
Tôi nghe mà không tin ở tai mình:
- Thầy nói cái gì?
- Công an vừa xuống, họ nói ama không được tổ chức trại nữa.
- Sao thế?
- Họ nói chưa xin phép, không được làm.
- Đó chỉ là cái cớ.
- Đúng vậy. Họ sợ người Jrai tụ họp.
- Giờ ama tính sao?
- Tình hình có vẻ căng. Họ hẹn ama sáng mai chín giờ lên ủy ban xã làm việc.
Sáng hôm sau, ama lên ủy ban tới trưa mới về. Lúc về cầm theo một bản kiểm điểm. Thế là hết.
Công sức ama dựng nhà vòm đến lỗ cả mắt, hai má tóp lại, tóc bạc đi giờ chính quyền không cho ai tới chơi.
Công sức ba thầy huấn luyện ròng rã một tháng đổ sông đổ biển hết.
Công sức các bạn học hành chăm chỉ mong đến một ngày vui tan thành mây khói.
Người ta nỡ lòng nào đối xử với các bạn như vậy. Họ coi các bạn là gì mà ngay quyền vui chơi cũng không cho. Ác nghiệt nhất là họ để sát tới ngày rồi mới dẹp. Họ để cho các bạn phải vất vả chuẩn bị, ngược xuôi lo lắng, sắm sửa đủ thứ rồi tới lúc sắp được vui hưởng, họ tới và đạp đổ tan tành. Đây không phải là lần đầu (và cuối cùng) chính quyền cản trở hoạt động của Giáo Hội nhưng trên Tây Nguyên thì còn ráo riết hơn. Chẳng cần phải nói ra ai cũng biết đó là chủ trương chính sách của nhà nước. Và người Jrai cũng biết rõ như thế, nên thái độ của các bạn trước việc bị cấm chơi cũng không đến mức thất vọng tràn trề. Các bạn chỉ nói:
- Không sao đâu. Họ không cho mình chơi cả huyện thì mình chơi từng buôn. Lo gì.
Đúng là tinh thần thảo mộc, nhìn mọi sự ở trần gian này chỉ là tạm bợ. Dù có chuyện to tát hơn xảy ra thì người Jrai cũng thấy “không sao đâu”. Ngay cả khi trong nhà không còn một xu mua gạo, thì họ cũng bình thản nói: “không sao đâu”. Đấy là chân lý của họ và họ sống y như vậy. Điều đó không có nghĩa là họ nhu nhược, hèn kém vì họ biết mình chỉ là đứa con ghẻ trong đất nước này. Họ chấp nhận chính sách của anh nhưng không phục tùng anh và trong lòng họ thì khinh anh chẳng ra gì. Ở đây, nếu cứ đụng chuyện là tức điên lên thì chắc cao tăng sông mà chết sớm thôi. Cho nên, “không sao đâu”. Không chơi cả huyện, thì ta chơi từng buôn, miễn sao tiếp tục được niềm vui và hy vọng đã thắp lên, đó mới là điều cốt yếu.
Các thầy chia bánh kẹo, quà cáp ra thành từng phần nhỏ. Bao nhiêu buôn là bấy nhiêu phần. Mỗi buôn đều có nhóm trưởng, đây là người đã được tập huấn kỹ càng. Chính người này sẽ quy tụ các bạn trẻ trong buôn lại và tiếp tục cuộc vui. Ama ban phép lành cho mọi người rồi các bạn lục tục kéo nhau về buôn của mình. Thôi nhé, hẹn gặp lại khi thế thời thông thoáng hơn.
Không có hội trại, mấy thầy và tôi thành ra “thất nghiệp”. Thế là anh em rủ nhau đi thăm các buôn làng gần đó, nhân tiện, cũng để chào mọi người ra về. Lớp học của tôi đã tổng kết mấy hôm trước. Tất cả là 73 em. Các em là những đứa học trò đầu tiên của tôi. Các em đâu biết rằng chính các em đã dạy cho tôi biết quý trọng từng ngụm nước, hột cơm và làm thay đổi con người tôi. Giờ đây, tôi sắp phải trở về thành phố ngột ngạt và bon chen. Tôi sẽ không còn được nghe tiếng cười trong trẻo của các em, cũng chẳng còn được nhìn thấy đôi mắt sáng như sao của các em. Nhưng tôi sẽ lưu ký các em trong tim như một mối tình đầu. Nếu muốn làm một cái gì đó vững bền cho các em, thì tôi phải về thôi. Phải về để tiếp tục đào luyện và tìm kiếm cơ hội trở lại.
Thời gian của các thầy ở đây đã hết. Tôi cũng vậy. Tháng tám đã bước qua một ngày. Chúng tôi phải về thôi. Ama nói chúng tôi nên ở lại tới chủ nhật, hôm đó có đông đủ mọi người tới dự lễ, chào ra về như vậy phải phép hơn. Tôi tưởng chỉ thế thôi, hóa ra ama muốn giữ chúng tôi ở lại ăn bữa cơm chia tay với buôn làng.
Sáng hôm đó lễ xong, cả buôn không về như mọi bữa mà ở hết lại. Người này người kia lăng xăng nấu ăn tự nhiên như ở nhà mình. Mấy ami không cho tôi đụng tới chuyện bếp núc vì hôm nay tôi là khách. Khách không được phép làm gì cả, chỉ ngồi trên chiếu chơi thôi. Cuối cùng, người ta bê ra ba ghè rượu lớn, hai con gà nướng, lá mì xào, cà xóc, kiến vàng… Nhà nào có món gì thì bê qua món ấy. Cho nên, bữa cơm hôm ấy đủ mùi vị. Cầu nguyện xong, mọi người mời chúng tôi uống rượu cần. (Nếu không uống, người ta sẽ rất buồn vì nghĩ rằng mình khinh họ). Dường như ông trời cũng khoái mấy cái vụ uống rượu nên cho mưa phùn cả buổi chiều. Không khí se lạnh tự nhiên muốn cầm cái cần hút vài ngụm cho ấm người. Khi chúng tôi uống xong, mọi người trong làng mới uống, bắt đầu từ người già nhất. Sau đó họ bẻ đôi con gà ra, bỏ vào chén chúng tôi mỗi người một cái cẳng. Cuối cùng, họ đeo cho mỗi người một chiếc còng bằng đồng. Thì ra đây là lễ trao còng, người Jrai gọi là buh cong. Họ chỉ trao còng cho ai mà họ quý mến với hàm ý kết nghĩa anh em. Từ nay, họ xem chúng tôi là con cái trong làng. Còn chúng tôi, chúng tôi trở nên “người nhà” của cả buôn. Người Jrai đã dùng thứ tình cảm thiêng liêng nhất của con người, là tình thương gia đình, để diễn tả tình cảm của mình. Họ đặt vào chiếc còng lòng tin yêu như người cha, người mẹ luôn dõi bước theo con. Có sống với họ, hiểu văn hóa của họ thì mới thấy quý chiếc còng họ trao cho mình. Còn không, sẽ chỉ thấy nó giống như muôn vàn chiếc còng khác bán ngoài chợ và ta dễ dàng cho người khác.
Ama H’noel mang theo cây đàn ghitar, bây giờ có chút men mới bắt đầu dạo nhạc. Mọi người hứng khởi hát hò, vỗ tay phụ họa, nhảy múa xung quanh.Tôi uống một kang xong, mặt đỏ bừng, cảm thấy không ổn bèn xin phép vào phòng nghỉ trước. Bên ngoài, tiếng nhạc mỗi lúc một rộn ràng, cuồng nhiệt. Tôi thấy mình như đang trôi đi trên một dòng sông, hai bên bờ, người Jrai đứng mỉm cười vẫy tay chào.
Amai H’ Blan
Mùa thu 2011
VRNs (25.07.2012) - Gia Lai
Chào ban quản trị web . Mình đọc bút ký của Amai H’ Blan thấy rất hay và có nhiều ý nghĩa . Mình không rõ nội dung như ở trên là đã đủ trọn bút ký chưa hay là còn những phần tiếp ?
Trả lờiXóaCảm ơn ban quản trị đã giới thiệu một bút ký rất có ý nghĩa .
hay và chân thực quá!
Trả lờiXóa