Thứ Tư, 26 tháng 3, 2014

NHỮNG ĐIỀU CHIA SẺ - kỳ thứ 19. LỜI KẾT



NHỮNG ĐIỀU CHIA SẺ


LỜI CÁM ƠN.

      Trong tập hồi ký "Những Điều Chia Sẻ" của tôi, có ít nhiều nhận định mang yếu tố chủ quan, bên cạnh đó là một vài sự suy nghĩ có tính cách cá nhân. những suy nghĩ và nhận định này đối với nhiều người, nhất là với những Linh Mục đã từng phục vụ cho người dân tộc Tây Nguyên lâu nay, sẽ thấy những suy nghĩ của tôi còn nhiều thiếu sót, rất mong có được những lời góp ý và động viên để công việc phục vụ cho người dân tộc nghèo được tốt đẹp hơn về mặt Đạo cũng như Đời.
      Tôi xin gởi lời cám ơn đến:
      * Cám ơn Thầy Bắc - Dòng Ngôi Lời - đã khởi xướng, động viên và mua máy về để cho tôi được nói lên những suy nghĩ của mình về cuộc đời làm linh mục và việc phục vụ cho những người nghèo khó.
      * Cám ơn Anh Sĩ Hùng và chị Lan vợ anh Hùng- Hiếu Đạo - đã đọc lời nói của tôi cho chồng đánh máy, và đã tốn rất nhiều thời gian để hoàn thành công việc này.
      * Cám ơn Cháu Hoa Phượng, con của anh chị Tấn Tịnh- Pleiku- đã cố gắng chuyển gần hết tập tài liệu từ văn nói thành văn viết.
      * Cám ơn Chị Trần Ngọc Hải là người quen của tôi - đã giới thiệu chị Hồ Thủy là bạn thân của chị Hải - với tôi.
      * Cám ơn chị Hồ Thủy là người đã có công biên soạn toàn bộ "Những Điều Chia Sẻ" của tôi thành một tập Hồi ký hoàn chỉnh và đặt tên cho tập hồi ký này là "Mùa Đông Ấm Áp". Chính sự quyết tâm của chị Hồ Thủy đã làm cho "Những Điều Chia Sẻ" của tôi được nhiều người biết đến, và cũng qua chị Hồ Thủy, mà Những Điều Chia Sẻ của tôi đã được cập nhật trên Newvietart.
      * Cám ơn Anh Nguyễn Thành Tấn là chồng của chị Hồ Thủy, đã luôn đồng hành với chị Hồ Thủy, từ lúc khởi đầu cho đến khi hoàn thành tập tài liệu Những Điều Chia Sẻ của tôi, và trong việc xuất bản anh chịu toàn bộ chi phí.
      Mỗi khi mùa Đông đến, trời lạnh giá, nhưng ước mong sao mỗi một người trong chúng ta cùng đốt lên ngọn lửa yêu thương, để sưởi ấm và chia sẻ những gì chúng ta có cho những người nghéo khổ, chắc chắn rằng họ được đón nhận một "Mùa Đông ấm áp" thay cho mùa đông giá rét.
      Xin Chúa chúc lành cho chúng ta.


      Linh Mục Phêrô Nguyễn Vân Đông.
      ____________________________
LỜI KẾT

Sau khi biên tập xong Những điều chia sẻ của Linh Mục Nguyễn Vân Đông, tôi lấy tựa đề cho cuốn sách là:"Mùa Đông ấm áp".
Trong tập tài liệu Những điều chia sẻ này thì nhân vật chính là những người dân tộc nghèo khó, bệnh tật, nhất là những người bị bệnh phong cùi... Cuộc sống của những người dân tộc thiểu số cũng như nếp sinh hoạt của họ: từ tâm tình yêu thương gia đình, đến sự gắn bó với làng; với núi rừng sông suối... rồi chuyện làm nương rẫy, trồng trọt...v.v... qua lời kể của Cha, đã trở thành một bức tranh vô cùng sống động.
Điều làm chúng tôi đau lòng nhất, đó là những chuyện kể về các thai nhi bị phá bỏ, đến chuyện những người dân tộc bị chết vì các thứ bệnh rất thông thường; chỉ vì họ thiếu thốn đủ thứ: như thuốc men và tiền bạc, nhất là khi họ ở trong các vùng sâu, tận trong rừng núi... quá xa bệnh viện. Rồi cuộc sống nghèo khổ vì làm việc không có phương pháp, thêm nữa là họ không có óc cầu tiến... Đến hình ảnh đáng thương của những người bệnh phong cùi với những mặc cảm vì sự kỳ thị mà họ phải chịu... đã làm chúng tôi chạnh lòng.
Khi đọc đến bài số 16 của tập tài liệu này với tựa đề: "Những điều đáng lo ngại", lòng tôi ngậm ngùi buồn, vì tôi như thấy một mảng "màu xám" đang vây quanh cuộc sống mộc mạc; đơn sơ của những người dân tộc thiểu số ấy... nhưng thật đáng buồn và lo lắng hơn khi mà phần đông người dân tộc thiểu số không nhìn thấy cái "màu xám" đó, họ vẫn sống hồn nhiên vô tư và bằng lòng với số phận, với cái nghèo của mình, vì họ không có óc cầu tiến, nhưng nếu cứ như thế thì tương lai của họ và con cái họ sẽ đi về đâu? không lẽ họ cứ sống trong cảnh nghéo đói khốn cùng mãi sao? Cũng may là có một số người dân tộc trẻ được đi học và có học; đã nhìn thấy được điều đó, nhờ vậy mà họ có ý thức và có sự cố gắng đề cuộc sống của họ được đi lên.
Những trăn trở, lo lắng của Cha chính là những điều mà từ rất lâu Cha đã ấp ủ trong lòng, và nó ở mãi trong trái tim Cha mà Cha không thể và cũng không muốn buông ra.
Chúng tôi: anh Nguyễn Thành Tấn, cô Trần Ngọc Hải và Hồ Thủy cũng bị "lây nhiễm" với những nỗi lo lắng của Cha, cả ba chúng tôi mong sao những ai sau khi đọc xong tập tài liệu "Những Điều Chia Sẻ" trong Mùa Đông ấm áp này, cùng mở rộng vòng tay và cả tấm lòng của mình nữa; để chia sẻ với những người dân tộc thiểu số nghèo; bằng cách này hay cách khác: từ vật chất đến tinh thần, nhất là với những người bị bệnh phong cùi, họ rất cần đến tình thương yêu chân thật của chúng ta, vì trong lòng họ đầy mặc cảm bời sự kỳ thị của những người khác.
Mùa Đông tuy lạnh giá, nhưng nếu chúng ta cùng mở rộng vòng tay và trái tim của mình ra để đón nhận, để cùng nhau cảm thông, chia sẻ với những người dân tộc thiểu số đang sống trong sự nghèo khó, bệnh tật, phong cùi... bằng những ngọn lửa yêu thương chân thành của chúng ta thì mùa Đông sẽ trở nên vô cùng ấm áp
Biên Tập: Hồ Thủy

Thứ Hai, 17 tháng 3, 2014

NHỮNG ĐIỀU CHIA SẺ - (18) NHỮNG GƯƠNG TỐT VÀ CÔNG VIỆC MÀ CÁC VỊ THỪA SAI TIỀN BỐI ĐÃ LÀM - Lm Phêrô Nguyễn Vân Đông


NHỮNG ĐIỀU CHIA SẺ


LỜI CÁM ƠN.

      Trong tập hồi ký "Những Điều Chia Sẻ" của tôi, có ít nhiều nhận định mang yếu tố chủ quan, bên cạnh đó là một vài sự suy nghĩ có tính cách cá nhân. những suy nghĩ và nhận định này đối với nhiều người, nhất là với những Linh Mục đã từng phục vụ cho người dân tộc Tây Nguyên lâu nay, sẽ thấy những suy nghĩ của tôi còn nhiều thiếu sót, rất mong có được những lời góp ý và động viên để công việc phục vụ cho người dân tộc nghèo được tốt đẹp hơn về mặt Đạo cũng như Đời.
      Tôi xin gởi lời cám ơn đến:
      * Cám ơn Thầy Bắc - Dòng Ngôi Lời - đã khởi xướng, động viên và mua máy về để cho tôi được nói lên những suy nghĩ của mình về cuộc đời làm linh mục và việc phục vụ cho những người nghèo khó.
      * Cám ơn Anh Sĩ Hùng và chị Lan vợ anh Hùng- Hiếu Đạo - đã đọc lời nói của tôi cho chồng đánh máy, và đã tốn rất nhiều thời gian để hoàn thành công việc này.
      * Cám ơn Cháu Hoa Phượng, con của anh chị Tấn Tịnh- Pleiku- đã cố gắng chuyển gần hết tập tài liệu từ văn nói thành văn viết.
      * Cám ơn Chị Trần Ngọc Hải là người quen của tôi - đã giới thiệu chị Hồ Thủy là bạn thân của chị Hải - với tôi.
      * Cám ơn chị Hồ Thủy là người đã có công biên soạn toàn bộ "Những Điều Chia Sẻ" của tôi thành một tập Hồi ký hoàn chỉnh và đặt tên cho tập hồi ký này là "Mùa Đông Ấm Áp". Chính sự quyết tâm của chị Hồ Thủy đã làm cho "Những Điều Chia Sẻ" của tôi được nhiều người biết đến, và cũng qua chị Hồ Thủy, mà Những Điều Chia Sẻ của tôi đã được cập nhật trên Newvietart.
      * Cám ơn Anh Nguyễn Thành Tấn là chồng của chị Hồ Thủy, đã luôn đồng hành với chị Hồ Thủy, từ lúc khởi đầu cho đến khi hoàn thành tập tài liệu Những Điều Chia Sẻ của tôi, và trong việc xuất bản anh chịu toàn bộ chi phí.
      Mỗi khi mùa Đông đến, trời lạnh giá, nhưng ước mong sao mỗi một người trong chúng ta cùng đốt lên ngọn lửa yêu thương, để sưởi ấm và chia sẻ những gì chúng ta có cho những người nghéo khổ, chắc chắn rằng họ được đón nhận một "Mùa Đông ấm áp" thay cho mùa đông giá rét.
      Xin Chúa chúc lành cho chúng ta.


      Linh Mục Phêrô Nguyễn Vân Đông.
      ____________________________

18 .
NHỮNG  GƯƠNG TỐT VÀ CÔNG VIỆC MÀ CÁC VỊ THỪA SAI TIỀN BỐI ĐÃ LÀM

Tôi muốn nói về gương tốt của các Linh Mục cũng như công việc mà các Linh Mục đã làm, từ xưa cho tới bây giờ. Đó chính là nguồn động lực rất lớn đã luôn động viên tôi trong công việc và trong cuộc đời làm Linh Mục của tôi ở Giáo Phận Kontum.          
Nếu chúng ta được đọc cuốn sách "Dân Làng Hồ" chúng ta sẽ biết là từ năm 1848 công việc của các Linh Mục là vô cùng gian nan khổ cực, gặp biết bao nhiêu là khó khăn vất vả, với đủ thứ bệnh tật, đau yếu. Với tình yêu thương, lòng can đãm, sự quyết tâm, sức chịu đựng bền bỉ không lùi bước trước mọi gian nan thử thách... Nhờ những đức tính đó mà các Ngài đã làm nên sự nghiệp vô cùng lớn lao cho Giáo Phận Kotum  như chúng ta đang thấy bây giờ.          
Và nếu chúng ta đọc cuốn sách "Mở Đạo Kontum" của Cha Phaolồ Bang và cha Simon Thiệt thì chúng ta cũng thấy được điều đó. Song song với công  việc đi rao giảng Tin Mừng của Chúa, thì các Linh Mục đã làm thêm nhiều điều rất quan trọng cho những người dân tộc thiểu số, thuộc các sắc tộc khác nhau, đó là khai hóa cho đầu óc còn hoang sơ của họ, đồng thời đem nền văn minh Tình Thương của Chúa đến với họ. Như tôi đã kể, thì trước đó họ thường đánh nhau để tranh giành quyền lợi về đất đai, lương thực hay là về một vấn đề gì đó, sự hiềm khích luôn có trong lòng họ giữa sắc tộc này với sắc tộc khác. Nhưng khi đã được nghe các vị Thừa Sai rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu, thì họ nhận ra một điều: họ cùng là anh em với nhau, vì họ có chung một niềm tin. Khi chịu phép rửa thì họ ăn một bánh uống một chén. Họ đã từ bỏ mọi hiềm khích để ngồi lại với nhau mà yêu thương và giúp đở lẫn nhau. Đây chính là ảnh hưởng Tin Mừng Tình Thương của Chúa; mà các Linh Mục đã dày công rao giảng cho người dân tộc thiểu số thuộc các sắc tộc khác nhau thời xa xưa ấy. Có một điều rất quan trọng cần đề cập tới: Ấy là chữ viết của các sắc tộc khác nhau mà các vị thừa sai đã có công gầy dựng, vì các Ngài muốn người dân tộc biết đọc, biết viết, biết học hành, đó là cả một vấn đề rất lớn, mặc dù là một công việc rất khó khăn nhưng các Ngài đã làm được và đã thành công.          
Sau này, nghĩa là sau năm 1975,  cũng đã có nhiều ý kiến cho rằng Giáo Hội Công Giáo ở trên Kontum đã hơn 100 năm nay mà không làm được gì cho người dân tộc. Theo họ thì người dân tộc vẫn chậm tiến, vẫn nghèo... Thế nhưng họ đâu biết được những công việc ngay từ đầu đặt chân lên đất Kontum, các vị Thừa Sai đã làm như thế nào ? đã gian nan vất vả ra sao ? đã gặp biết bao nhiêu là khó khăn và nhiều thử thách ?... Tôi có quen một người là cán bộ, tôi cho ông ta mượn cuốn sách "Dân Làng Hồ". Sau khi đọc xong cuốn sách đó ông ta hỏi tôi rằng:          
- Những chuyện được viết trong sách là thật hay chỉ là sự tưởng tượng?          
Tôi trả lời:          
- Chúng tôi không tưởng tượng đâu, chúng tôi viết hoàn toàn là sự thật. Những cố gắng, sự hi sinh, tình yêu thương của các Ngài rất đáng để cho con cháu chúng ta trân trong, khâm phục, tri ân, và phải luôn ghi nhớ. Vì các Ngài đã làm nên những việc hết sức lớn lao, có ích lợi cho con người, nhất là những người dân tộc thiểu số ở tận những nơi xa xôi hẻo lánh, trong rừng trong núi...          
Từ đầu thế kỉ XX Giáo Phận Kontum đã có nhà in đặt tại trường Cuénot để in các loại sách như: giáo lý,  sách về Tin Mừng, sách về thiên văn, rồi đến các sách dạy cấy cày, những sách này đều nhờ nhà in họ in bằng các thứ tiếng dân tộc khác nhau, và Trường Cuénot là trường đã có công đào tạo ra nhiều hoa trái vô cùng to lớn cho đồng bào các sắc tộc khác nhau. Bắt đầu là công việc dạy học chữ, dạy giáo lý, dạy văn hóa, khai hóa tâm trí và đời sống của họ.
      Những người học ở trường Cuénot từ 7 đến 8 năm, sau khi ra trường họ được gọi là Giáo Phu. Các Giáo Phu đi về các làng xa xôi, hay các làng ở tận trong rừng núi... họ là những giáo viên dạy cái chữ, dạy giáo lý cho người dân tộc và cũng là những người chủ sự các buổi cầu nguyện ở trong các  buôn làng. Chính vì thế mà trường Cuénot là một công trình sáng tạo vô cùng thông minh, thiết thực cùa Đức Cha Phước khi Ngài còn là Linh Mục vào đầu thế kỷ XX.            
Năm 1947, Đức Cha Khâm, người kế vị Đức Cha Phước đã lập ra Dòng Ảnh Phép Lạ. Đây là Dòng dành cho các thiếu nữ người dân tộc muốn dâng mình cho Chúa, những thiếu nữ này tuy khác nhau về sắc tộc sắc, nhưng họ cùng có chung một lý tưởng là phục vụ cho những người thuộc các dân tộc thiểu số, trong các buôn làng khác nhau, nói những thứ tiếng khác nhau bằng tiếng mẹ đẻ của họ.          
Chính các Linh Mục đã đưa những giống cây cà phê, cây cao su, cây bơ... từ các nước khác lên trồng ở miền đất cao nguyên, vì các Ngài thấy đất bazan của vùng cao nguyên khá thích hợp với các loại cây trồng này. Các Linh Mục cũng đã đem thuốc men lên cho người dân tộc, nhất là thuốc sốt rét, và nhiều loại thuốc khác nữa để chữa bệnh cho họ. Chúng ta là hậu thế, nhưng chúng ta phài biết rằng những công việc mà các Linh Mục ngày đó đã làm thật vô cùng quan trõng và cần thiết cho người dân tộc, mặc dù các Ngài đã gặp rất nhiều khó khăn. Không phải dễ dàng gì để thuyết phục người dân tộc những điều như: nào là phải canh tác và sử dụng trâu bò để cày bừa, nào là phải uống thuốc để chữa bệnh, nào là phải biết giữ vệ sinh trong sinh hoạt hằng ngày...          
 Năm 1933 Chủng Viện Thừa Sai Kontum bắt đầu được xây dựng, có chiều dài là 100m, chỗ rộng nhất là 25m.Chúng tôi vừa mới dâng lễ mừng kỷ niệm 75 năm thành lập Chủng Viện. Mặc dù đã trải qua thời gian dài 75 năm nhưng cho tới bây giờ thì Chủng Viện Kontum vẫn là một công trình sáng tạo đầy nét thẩm mỹ mới lạ, và chính Đức Cha Phước đã xây dựng nên. Ngài có đầu óc của một kỹ sư và một kiến trúc sư; nên khi Ngài xây dựng công trình này thì nó có một vẻ đẹp độc đáo; uy nghi sừng sững đứng vững với thời gian. Đây là một công trình vô cùng to lớn, nhất là còn có tính lịch sữ của vùng đất Tây Nguyên  này. Bây giờ thì Chủng Viện Kontum còn mang giá trị du lịch cao, thu hút rất nhiều khách nước ngoài cũng như trong nước đến tham quan. Hầu hết mọi người đều trầm trồ khen ngợi và vô cùng khâm phục đầu óc của những người đã xây dựng nên Chủng Viện Kontum này.            
Năm 1955 tôi đi tu và tôi được tiếp xúc với những vị Linh Mục thời đó. Địa phận Kontum lúc đó gồm có Kontum và Ban Mê Thuộc bây giờ. Các Linh Mục đã đi làm lễ khắp các rừng núi, có những lúc bị cọp rượt chạy, sợ quá trời nhưng vẫn cố gắng để hoàn thành nhiệm vụ và bổn phận mà Chúa đã giao cho các Ngài.
      Tôi nhớ cha già Diện, có một thời gian Ngài là cha Bề Trên của địa phận Kontum, tới năm 1975 thì tôi về làm việc tại địa phận Kontum, khi đó các Ngài thuộc vào hàng các cha già và nghỉ hưu. Cha già Diện là một Linh Mục rất đạo đức, tuy mù lòa nhưng ngày nào Ngài cũng cầm chổi quét sân. Mỗi lần tôi đến nhà hưu dưỡng thăm các Cha thì Ngài nói với tôi:          
- Cha đến đây để tôi sờ má xem cha mập hay ốm.          
Tôi cảm động rưng rưng nước mắt khi Ngài đưa tay chạm vào má của tôi.
Thời gian từ 1975 đến 1980: Ngài ở nhà hưu dưỡng, lúc đó nhà hưu dưỡng có 4 Linh Mục là: cha Nghĩa, cha Diện, cha Cẩn, cha Thận. Các Ngài nghỉ hưu nên không làm gì, suốt ngày giải tội cho giáo dân đến nhà hưu xưng tội.
Từ năm 1976  đến năm 1983 tôi làm quản lý ở tòa giám mục, bổn phận của tôi là phải lo cho các Cha già ở nhà hưu, nói là lo nhưng thời kỳ đó các Cha già sống rất là thiếu thốn. Có một lần vào khoảng năm 1977, cha Diện hỏi tôi:
- Cha Đông ơi! Bây giờ người ta có còn làm sữa không?          
Tôi không hiểu nên hỏi lại:          
- Sữa gì cơ ạ?          
Ngài nói:          
- Sữa đặc, sữa lon đấy mà.          
Tôi trả lời:          
- Bây giờ thì có, nhưng Hợp Tác Xã chỉ bán cho những người có giấy chứng nhận vừa sinh đẻ mà thôi.          
Ngài thở ra và nói:          
- Không biết làm sao mà đẻ được bây giờ?          
Rồi Ngài hòi tôi:          
- Mà có ngon không?          
Tôi trả lời:          
- Con cũng không biết nữa vì mấy năm nay con không uống sữa.          
Tôi cảm thấy thương Ngài quá, vì người già thường hay hóa trẻ, thèm gì thì nói nấy, vì vậy nên tôi đi gặp một giáo dân là cô Nữ, thuộc giáo xứ Tân Hương. Tôi nhờ cô cố gắng bằng cách nào đó mua dùm tôi một lon sữa, nhưng cô nói:          
- Người ta có sanh đẻ thì mới được mua sữa, còn như con không đẻ thì làm sao mua được sữa bây giờ?.          
Tôi nói đùa với cô Nữ:          
- Giờ cô cố gắng tìm cách đi đẻ... cũng được, để mua một lon sữa.          
Tôi không ngờ và cũng không biết cô Nữ làm sao mà mua được một lon sữa đặc có đường, cô gói rất kỹ lưỡng và đưa cho tôi vào ban đêm.
Sáng hôm sau tôi mang lon sữa xuống nhà hưu dưỡng nói nhỏ với cha Diện:          
- Cha ơi! con có sữa rồi.          
  Ngài hỏi tôi:          
- Làm sao cha có sữa?.          
Tôi cười và trả lởi:          
- Con mới đẻ.          
Ngài mắc cười vì câu trả lời của tôi.          
Nghe tôi nói có sữa, bốn Cha già cầm 4 cái ca vội vàng xuống nhà cơm, ai cũng mừng...          
Chúng tôi xuống nhà cơm, dì Mười Đào là người phụ trách nấu cơm cho các Cha già, tôi nói dì nấu cho tôi một nồi nước sôi để pha sữa, nghe tôi nói có sữa dì cũng ngạc nhiên không biết vì sao mà tôi có...sữa? Tôi cũng nói đùa là.. mình mới đẻ làm dì cũng mắc cười quá chừng luôn. Tôi bảo dì mang thêm 2 cái ly, 1 cho dì và 1 cho tôi. Tôi đục 2 lỗ trên nắp lon sữa, sữa nó trào ra. Cha Diện tuy bị mù, nhưng Ngài cũng tinh ý và hỏi tôi:          
- Sữa có ngon không cha Đông?.          
Tôi thắc mắc là tại sao Ngài lại hỏi vậy thì Ngài nói:          
- Tôi biết thế nào cha cũng liếm chỗ sữa trào ra.          
Mà đúng là tôi có liếm phần sữa bị trào ra. Sữa thật là ngon và chúng tôi ngồi nhâm nhi hằng nửa giờ chỉ với một ly sữa. Sau bao nhiêu năm bây giờ mới được uống sữa nên các Ngài có vẻ vui lắm.          
Cha Diện cũng là một gương sáng cho tôi về sự hy sinh và tấm lòng luôn biết chia sẻ, Ngài luôn nghĩ đến người khác. Hồi đó mua vải rất khó khăn, một năm mỗi người chỉ được mua 2m mà thôi, Ngài biết điều đó nên nói với tôi:          
- Cha Đông à, bây giờ  mua vải cũng khó khăn, quần áo cũ của tôi vẫn còn dùng được, Cha chỉ cần để dành cho tôi 1 bộ quần áo cũ tương đối còn tốt, để sau này tôi chết thì mặc cho tôi, phần còn lại Cha đem chia hết cho người nghèo. Áo ấm thì cha để cho tôi 1 cái mà thôi, còn lại bao nhiêu thì Cha cho những người thiếu thốn, tôi già rồi, tôi không mặc nhiều đâu, sandal, giày dép cũng vậy, tôi không mang nhiều đâu. Còn cài đồng hồ treo tường, vì tôi mù nên nghe tiếng gõ của nó thì tôi biết giờ, Cha để lại cho tôi, sau này khi tôi chết thì Cha cho ông Qúy, người đã giúp tôi lâu năm rồi.          
Đó cũng là gương tốt cho tôi.          
Tôi nhớ có một lần vào khoảng đầu tháng 11 năm 1980, tôi khoe với Cha gìa Diện:          
- Cha ơi! Mình sắp có lúa mới rồi.          
Vì hồi đó tôi làm ruộng. Ngài hỏi:          
- Khi nào thì có?          
Tôi trả lời:          
- Khoảng 2 tuần nữa thì gặt được.          
Ngài nói:          
- Có khi là trễ rồi.          
Lúc đó tôi không hiểu ý Ngài vì tôi thấy Ngài vẫn còn mạnh khỏe. Nhưng mà...thật đúng là như vậy, vì khoảng 10 ngày sau khi tôi chuẩn bị đi làm lễ ở dòng Phaolồ Têrêxa thì tôi thấy chú Phước là người giúp các Cha già, chú đang ngồi trước hè nhà tôi, chú thông báo với tôi là cha Diện mất rồi. Tôi vội vàng đến nhà hưu.
      Sơ Hạnh dòng Bác Ái Vinh Sơn giúp các Cha vào ban ngày, nhưng vì cha Diện ngày càng yếu nên hôm đó sơ ở lại đêm. Sơ kể với tôi:          
- Đêm hôm qua khoảng 12 giờ  thì Cha kêu con dậy, bảo con dẫn đi tiểu, bảo con thay quần áo mới cho Ngài, rối Ngài nói với con là Ngài sắp đi, sơ hãy đọc kinh cầu nguyện cho tôi. Con nói để con nhờ chú Phước gọi cha Đông xuống, nhưng Ngài bảo là " đã chào cha Đông rồi, cũng đừng làm phiền các cha già vì tôi đã chào các Ngài rồi ". Con đọc Kinh cho Cha, Cha âm thầm đi lúc nào con cũng không biết.          
Tôi thấy chú Phước và sơ đã mặc áo lễ cho Cha. Cha nằm mà như đang ngủ vậy. Tôi thấy Ngài có một cái chết thật bình an ở vào cái tuổi 90, tôi luôn nhớ điều này và tôi ao ước cũng được như Ngài vậy.          
Tôi có quen với một bác sĩ hiện đang ở bên Mỹ, đó là bác sĩ Bùi Trọng Căn. Bác sĩ Căn đã từng ở tù Pleibông tại Gia Lai. Sau khi học tập cải tạo xong thì ông về với gia đình ở Sài Gòn. Sau này gia đình của bác sĩ đều theo đạo Công Giáo, trong lòng tôi luôn thắc mắc về điều này. Vì ông là một bác sĩ giỏi nên sau khi ở tù về thì được làm việc tại bệnh viện Nhi Đồng 2. Ông từng bị cải tạo chung với em tôi nên tôi cũng có ý muốn gặp ông. Nhân dịp một lần về Sài Gòn, chúng tôi đã có cuộc hẹn và sau đó gặp nhau. Tôi hỏi ông:          
-  Tại sao bác sĩ và luôn cả gia đình của bác sĩ lại theo đạo?.          
Bác sĩ Căn đã tâm sự với tôi:          
- Con học tập chung với linh mục Hoàng, lúc đó cha Hoàng bị biệt giam, vì con là bác sĩ nên con có thể đi thăm sức khỏe cho Cha mỗi tuần một lần, và lần nào cũng thế, tới thăm sức khỏe cho Cha, con thấy Ngài vẫn luôn vui vẻ, bình an, nói năng nhẹ nhàng nhã nhặn. Thường thì khi bị biệt giam, không được nói chuyện với ai nên tâm lý con người ta rất dễ trở nên khó chịu, bẳn gắt, thù hận, bất mãn, có khi còn bị trầm cảm nữa... Nhưng với cha Hoàng thì con thấy điều ngược lại. Con nghĩ rắng Ngài đã có một sức mạnh siêu nhiên nào đó rất đặc biệt nên mới được thư thái như vậy. Từ đó lòng con muốn có được điều bình an như Ngài trong cuộc đời đầy sóng gió của mình. Con cần nó và con biết rằng sở dĩ Ngài được như vậy là do Ngài có một đức tin tuyệt đối vào Chúa. Ở trong trại cải tạo con đã tìm hiểu về Chúa, về đạo, và con quyết tâm sau này con sẽ theo đạo, vì chỉ có đạo mới ban cho con sức mạnh đó. Những điều gì tốt đẹp cho con thì con cũng muốn có điều tốt đẹp đó cho người thân, cho gia đình của mình, nên cả gia đình con theo đạo cũng là như thế.          
Những hình ảnh về cha Hoàng mà bác sĩ Căn đã kể cho tôi nghe, đó cũng là tấm gương tốt cho bác sĩ và cho cả tôi nữa.          
Khi còn làm việc ở Gia Lai thì tôi luôn nhớ hình ảnh của cha Antôn Vương Đình Tài, Ngài là Linh Mục của Dòng Chúa Cứu Thế. Ngài đã lên Tây Nguyên sống và rao giảng Tin Mừng Cứu Thế cho những người dân tộc thiểu số. Ngài đã sống như một người dân tộc thực sự, từ việc ăn uống hết sức đạm bạc cho đến nhà ở của Ngài cũng rất là đơn sơ, Ngài nói tiếng Jarai rất giỏi nên Ngài rất gần gủi với họ, yêu thương và lo lắng cho họ, vì thế số lượng người dân tộc trở lại đạo rất đông, đó chính là công lao to lớn của Ngài. Phương tiện đi lại của cha Tài cũng rất là thô sơ... Ngài luôn thao thức suy nghĩ về công việc rao giảng Tin Mừng của Chúa cho người dân tộc. Dù thuận tiện hay không thì cha Tài vẫn là người luôn rong ruỗi trên con đường đầy gian khó mà không nãn lòng.
      Cha Vương Đình Tài đã miệt mài làm việc như vậy nên đến tuổi 70 thì Ngài kiệt sức. Nhưng cuộc sống cũng như cái chết của Ngài đã để lại ấn tượng sâu đậm cho người dân tộc mà Ngài yêu thương. Ngài cũng chính là tấm gương sáng cho đời sống Linh Mục của tôi: đó chính là sự yêu thương, hy sinh và lo lắng cho người dân tộc thiểu số bằng tất cả sức lực và tâm huyết của mình.          
Cha già Ánh cũng thế, Ngài bị đi cải tạo bao nhiêu năm trời. Sau này khi được tha về thì Ngài sống rất hiền hòa trong tòa Giám Mục. Ở tuồi 80  Ngài được bổ nhiệm về làm Cha xứ ở giáo xứ An Mỹ, tỉnh Gia Lai. Mặc dù 80 tuổi nhưng Ngài đã làm nhiều việc như: tìm mọi cách để xây nhà thờ, nhà xứ... Sau này mỗi lần đi ngang qua An Mỹ là tôi lại nghĩ tới Ngài, nghĩ tới sự cố gắng của Ngài để phục vụ cho Giáo Phận, Giáo Hội, Đó cũng là tấm gương tốt cho cuộc đời làm Linh Mục của tôi.          
Cha Tổng đại diện Giuse Nguyễn Thanh Liên, khi  còn khỏe, thì Ngài đã làm việc quần quật suốt ngày không nghỉ ngơi, bất chấp mọi nguy hiểm, khó khăn, cực khổ... Tính Ngài rất xuề xòa, vui vẻ với mọi người, không hế chấp nhất điều gì đối với một ai. Đến khi bị bệnh ung thư, nhiều người bảo rằng nhờ Ngài sống vui vẻ, lạc quan, rộng lượng nên Ngài có thể chịu đựng được căn bệnh nan y mà hiếm có người nào chịu được. Ngài cũng chính là tấm gương tốt cho đời tôi. Sự đau yếu của tôi so với căn bệnh ung thư của Ngài thì không là gì, thế nhưng Ngài vẫn gọi điện thoại thăm hỏi tôi, và Ngài rất mừng khi biết tôi cũng đã bớt bệnh. Giáo Phận luôn ở trong tim của Ngài, mặc dù Ngài đang ở xa Giáo Phận.
      Các Linh Mục trẻ bây giờ ở trong Giáo Phận cũng là tấm gương tốt cho tôi. Các cha, các thầy mặc dù ở những Dòng tu khác nhau nhưng sống và đối xử với nhau như anh em một nhà: luôn yêu thương gần gũi nhau và cùng nhau tận tình lo cho Cánh Đồng Lúa của Chúa. Bằng tất cả tâm tình yêu mến, các Cha đã luôn quan tâm lo lắng, giúp đỡ cho người dân tộc, kể cả người kinh ở những vùng xa xôi hẽo lánh, những vùng kinh tế mới, đó là phần đất mà các cha có trách nhiệm phải trông nom. Tôi rất cảm phục những Linh Mục với công việc mà các Ngài đang làm: Đó là rao giảng và đem Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người.          
Có những người tôi không biết, mà tôi chỉ được biết  các vị ấy sau khi đọc cuốn sách "Dân Làng Hồ", hay cuốn "Mở Đạo Kontum". Tôi vô cùng khâm phục và ngưỡng mộ các Ngài vì những thành  quả, những hoa trái mà các Ngài đã tạo dựng được trong sự gian  nan, vất vả đầy khó khăn, thử thách vào thời mà các Ngài sống và làm việc... Đó là những tấm gương sáng đã soi đường chỉ lối cho đời sống Linh Mục của tôi.            
Kể từ năm 1975, khi tôi sống với các Linh Mục đến nay, có người đã qua đời nhưng để lại cho tôi nhiều gương tốt, như cha Phêrô Phaolồ Hoàng văn Quy, cha Antôn Đinh Bạt Huỳnh, cha Giuse Trần Sơn Nam, cha Daminh Đinh Hữu Lộc... mặc dù các Ngài đã ra đi nhưng công việc của các Ngài làm vẫn ở mãi cùng chúng tôi. Với lòng kính trọng yêu thương,  chúng tôi luôn muốn hoàn thành công việc mà các Ngài để lại.            
Tôi xin chân thành cảm ơn các cha trong địa phận đã trở nên những tấm gương tốt và đó là động lực để cho công việc thực hiện sứ mệnh Linh Mục của tôi ngày càng được tốt hơn.

... CÒN TIẾP ...

NHỮNG ĐIỀU CHIA SẺ - (17) NHỮNG TẤM GƯƠNG SÁNG CHO ĐỜI TÔI - Lm Phêrô Nguyễn Vân Đông


NHỮNG ĐIỀU CHIA SẺ

Thứ Tư, 5 tháng 3, 2014

NHỮNG ĐIỀU CHIA SẺ - (16) NHỮNG ĐIỀU ĐÁNG LO NGẠI - Lm Phêrô Nguyễn Vân Đông



NHỮNG ĐIỀU CHIA SẺ

16.


NHỮNG ĐIỀU ĐÁNG LO NGẠI


Sống và rao giảng Tin Mừng cho anh em người dân tộc và phụ trách mục vụ cho họ, đã có những điều làm cho tôi cảm thấy thật lo lắng.

* Điều lo lắng thứ nhất: Uống rượu.
Từ xa xưa người dân tộc, kể cả nam lẫn nữ, đôi khi trẻ em cũng biết uống rượu. Đó là rượu cần, uống bằng cái cần, hoặc là rượu ghè, bởi vì rượu được chứa trong một cái ghè. Có thể làm rượu bằng gạo, bằng nếp, bằng củ mì, bằng bắp. bằng bo bo... v.v... Rượu tuy tương đối nhẹ nhưng lại say từ từ, ai cũng biết uống.
Nhưng rượu nào thì cũng làm cho người ta say. Người dân tộc khi đi xưng tội, thường xưng cái tội :
- Con có uống rượu...
Cấp độ nhẹ.
- ...Con uống mà con say...
Cấp độ này nặng hơn.
- ... Con say mà con còn ói mửa nữa...
Cấp độ này còn nặng hơn nữa.
-... Con say mà con còn mất luôn trí khôn...
Đây là cấp độ nặng nhất.
Thời Đức Cha Phaolô Kim, Ngài cũng biết điều này có hại cho con người nên Ngài đã ra một cái luật: "cấm bán rượu mạnh cho người dân tộc", rượu mạnh như rượu đế chẳng hạn. Thời bấy giờ là thập niên của thế kỷ XX, người kinh ở với người dân tộc thường là người Công Giáo. Mà ở trên Kontum người Công giáo kinh rất đông, cho nên ra luật này thì cũng có hiệu quả. Đối với người Công Giáo mà bán rượu mạnh cho người dân tộc là bị dứt phép thông công.
Được chừng nào hay chừng đó, và điều này cũng có hiệu quả phần nào trong việc giới hạn thói quen uống rượu của những người dân tộc. Bây giờ anh em Tin Lành cũng có cái luật là: Ai muốn trở về theo Chúa, theo Tin Mừng của Chúa thì phải quyết tâm bỏ rượu, như thế mới được theo đạo Tin Lành. Đây là điều rất đáng cho chúng ta bắt chước.
Tôi đã trông coi một làng dân tộc trong gần 20 năm. Tới Mùa Chay tôi cũng kêu gọi, nhất là cánh đàn ông đăng ký giảm rượu trong Mùa Chay, có giấy tờ ký tên đàng hoàng. Những người có quyết tâm sống Mùa Chay thì phải giảm uống rượu 75 %, 50 %, hay 25 %, và không uống rượu trong Mùa Chay. Lúc đầu cũng rất là thích thú trong nhà thờ, nhưng họ không biết giảm 75 % là bao nhiêu? Tôi phải giải thích thế nào là giảm 75 %, 50 %... Sau khi nghe như vậy họ hứa sẽ giảm, nhưng không có người nào hứa giảm 100 % cả. Rồi tôi bảo họ ghi tên mình vào tờ giấy tôi đã làm sẵn và ký tên mình vào. Tôi lấy những tờ giấy đó dán trong nhà thờ để mỗi Chúa Nhật tôi nhắc nhở họ: "Chúng ta đã ký giao kèo trong Mùa Chay là chúng ta giảm uống rượu, chúng ta bỏ bớt rượu".
Như thế cũng là có hiệu quả tốt đẹp do niềm tin đem lại.
Trong các ngày lễ hội thường có rượu cần, rượu ghè để uống, điều đó thì cũng đúng thôi. Thế nhưng mỗi ngày cánh đàn ông thường hay uống rượu đế, uống bia. Theo quan niệm của người dân tộc thì khi đã uống rượu là phải uống cho say. Nếu Linh Mục chánh xứ mà cấm uống rượu hay giảm uống rượu trong những ngày lễ thì cũng có kết quả, nhưng mà họ cũng lén uống.
Trong những dịp lễ lớn như lễ Giáng Sinh, lễ Phục Sinh, tôi hay làm lễ tại các làng. Lễ có khi thì 8 giờ, khi 9 giờ, cũng có khi là 10 giờ. Trước lễ thì không người nào được uống rượu, có uống mừng lễ thì cũng phải uống sau lễ. Tôi nói trước buổi lễ:
- Chúng ta phải tôn trọng Thánh lễ, chúng ta phải giữ chay trong Thánh lễ.
Và giáo dân đã nghe lời tôi.
Dọc theo những con đường vào các làng, nếu chúng ta gặp một người say rượu thì y như rằng đó là người nam, vì giới nữ bây giờ cũng ít uống rượu. Có tín hiệu vui là lớp trẻ người dân tộc bây giờ có học thức nên cũng bớt uống rượu. Ta phải nâng cao trình độ ý thức cho người dân tộc và như thế thì mới có thể kêu gọi họ bỏ bớt rượu. Phải cho họ biết uống rượu là rất nguy hiểm, nó ảnh hưởng tới thế hệ con cháu của họ sau này, vì rượu làm cho con cháu của họ không được thông minh, do vậy sự học hành sẽ bị kém đi.

* Điều lo lắng thứ hai: Tiêu xài tiền bạc không đắn đo.
Người dân tộc tiêu xài tiền bạc thường không đắn đo cân nhắc. Khi người dân tộc mà cố gắng biết lo làm ăn thì cũng dễ có tiền. Thứ nhất là họ có đất đai. Người kinh ở khắp nơi trong nước đến làm ăn ở các vùng thuộc tỉnh Gia Lai và Kontum, nếu cần mua đất thì mua đất của người dân tộc, dù nhà nước có luật là người dân tộc không được bán đất cho người kinh. Nếu người kinh mua đất của người dân tộc thì sẽ không được ký giấy tờ. Nhưng mà người dân tộc họ hay lắm, họ cũng chẳng cần giấy tờ: ông đưa tiền cho tôi, tôi giao đất cho ông là đủ rồi, không cần giấy tờ, anh cứ làm nhà đi, không sao đâu. Người dân tộc muốn có tiền thì hay bán đất, và người kinh cũng ưa dụ dỗ người dân tộc bán đất cho mình, bởi họ là dân buôn bán địa ốc mà.
Người dân tộc cũng bắt chước trồng cá phê, tuy không nhiều: 3 sào, 5 sào hay 1 hecta. Nhiều người dân tộc, nhất là người trẻ cũng biết làm cà phê, khi cà phê được mùa thì cũng có tiền. Họ cũng biết trồng rừng, trồng bời lời, khi cây bời lời lên giá thì người dân tộc cũng có nhiều tiền...
Như ở tnh Kontum, trên các ngọn đồi hay triền núi người dân tộc trồng mì, năm nay giá mì lát lên cao nên họ cũng có tiền. Tôi nghe một Linh Mục nọ kể: trong làng của mình đến ngày thu hoạch mì bán cho các thương buôn người kinh, xe tải tấp nập tới làng chở mì đi. Những ngày bán mì như vậy là người dân tộc trong làng có nhiều tiền, và trong những ngày này người kinh từ Kontum cách đó 50 cây số cũng có mặt, người ta lên đó để dựng những cái lều, cái trại dọc theo con đường vào làng rồi bán đủ thứ ăn nhậu: từ thịt chó cho đến khô mực, những thứ gì nhậu được thì họ bày ra bán, bia rượu thì có đủ loại. Và như thế khi bán mì xong là người dân tộc tập trung đến những quán này để ăn nhậu cho tới khuya. Cuối cùng khi ra về người nào cũng chân nam đá chân xiêu vì đã uống quá nhiều rượu bia, họ ăn nhậu mà không biết tiếc tiền. Tiền bạc làm ra từ công sức lao nhọc, từ những giọt mồ hôi của mình, ấy vậy nhưng đến khi tiêu tiền thì không hề đắn đo cân nhắc.
Tôi được Giám Mục Kontum cho biết là: "Chúng ta cần giúp đỡ cho học sinh, sinh viên người dân tộc đi học xa nhà". Nhưng Ngài cũng khuyên chúng tôi: dù có giúp đỡ nhưng cũng phải góp ý với họ là phải biết tiêu tiền một cách hợp lý. Cũng đã có sinh viên người dân tộc xài tiền điện thoại mỗi tháng tốn đến cả triệu đồng, đôi khi còn lên đến triệu rưỡi, điều này thì thật là quá đáng. Nhiều khi hết tiền họ đòi gia đình gởi thêm tiền lên cho họ, và thế là ở quê nhà cha mẹ phải bán bò, bán đất để gởi tiền cho con đi học... và tiêu xài.

*Điều lo lắng thứ ba: Lao động không có phương pháp không có tính khoa học.
Tôi lấy ví dụ: bên này bờ suối là vườn cà phê của người dân tộc làng tôi, bên kia suối là làng của người kinh, họ mua đất và cũng trồng cà phê. Luôn luôn là từ sáng sớm vườn cà phê của người kinh đã có người, người ta làm cỏ, tỉa cành, tưới nước... thậm chí người ta còn đi lượm phân bò trong làng của người dân tộc để bón cho vườn cà phê của họ.
Người dân tộc chúng tôi ở bên này suối cũng trồng cà phê nhưng không xanh tốt bằng cà phê của người kinh. Đôi khi làng của mình nuôi hàng 150 con bò mà không biết sử dụng nguồn phân bò dồi dào của nhà mình, lại đi mượn tiền để mua phân hóa học bón cho nhanh. Thành thử ra lao động như vậy là không có phương pháp.
Mỗi lần tưới cà phê là người dân tộc lại phải đi mướn máy, rồi mua sắm thêm đủ thứ để tưới nên tốn rất nhiều tiền. Đến khi thu hoạch thì tính ra lợi cũng không được bao nhiêu. Còn lao động thì mãi đến 8, 9 giờ sáng mới ra tới nương, rẫy của mình. Rồi mới 4 giờ chiều thì đã đi về.
Tôi đã từng nhiều lần nói với giáo dân của tôi như thế này:
- Chúng ta phải siêng năng làm việc. Bởi vì làm biếng là 1 trong 7 mối tội đầu. Cho nên chúng ta phải làm việc. Thì giờ là của Chúa ban cho chúng ta, chúng ta phải bắt chước những ai siêng năng hơn chúng ta. Nhìn vườn cà phê bên kia suối chúng ta có thấy không? Họ siêng năng nên từ 5, 6 giờ sáng là họ đã có mặt trên nương, rẫy rồi. Có siêng năng như vậy thì họ mới có tiền lo cho con cái của họ đi học được chứ. Mình cũng trồng cà phê hằng trăm cây như họ mà rồi chẳng được bao nhiêu. Vậy thì khi chúng ta lao động không có phương pháp, không có sự siêng năng thì chúng ta sẽ không có đủ điều kiện sinh sống, một khi không đủ điều kiện sinh sống thì chúng ta cũng không thể cho con cái chúng ta được học hành như mọi người. Nhất là người dân tộc chúng ta sinh nhiều con hơn người kinh.

* Điều lo lắng thứ tư: Người dân tộc ít lo lắng cho con cái của mình được học hành.
Xưa nay người dân tộc vẫn coi thường việc học hành. Tuy rằng bây giờ cũng có một số người biết cho con đi học, cũng thấy việc học là cần thiết. Họ cho con đi học ở nhà trường, ở trung cấp y tế, sư phạm, mẫu giáo... v.v... Nhưng đáng tiếc là số người này chưa được nhiều lắm. Đa số cha mẹ mù chữ nên cũng chưa cảm thấy tha thiết cho con họ đi học cái chữ. Con đi học nhưng một khi tới ngày mùa, mà ngày mùa thì vui lắm: lên nương lên rẫy bắt được con chuột, con cào cào... v.v... Thế thì đi học không vui, không hấp dẫn bằng đi lên nương rẫy, lên núi hay đi vô rừng... Cha mẹ cũng không ý thức được việc học của con là cần thiết, nên khi tới ngày mùa thì dễ dàng cho con bỏ học để theo cha mẹ lên nương, lên rẫy bắt con chuột, con cào cào...
Cũng may là các cha mẹ trẻ bây giờ đã có tiến bộ rõ rệt, đó là họ thấy được việc học hành của con cái là rất cần thiết và quan trọng.

* Điều lo lắng thứ năm: Người dân tộc không cầu tiến.
Nếu chúng ta đi dọc đường trong các thôn làng, trong các huyện, các thành phố ở Tây Nguyên, thì chúng ta thấy những đoàn người lao động đi bộ lên nương rẫy, đích thị đó là người dân tộc, vì không có phương tiện nào khác nên họ phải đi bộ. Bây giờ thì cũng có nhiều người dân tộc sắm xe độ, xe công nông để chở người nhà, hoặc người trong làng của mình lên nương rẫy. Nguyên tắc là xe công nông không được chạy trong thành phố. Nhưng khi phía chính quyền, công an giao thông có bắt thì cũng chịu thôi, bởi vì đó là phương tiện duy nhất để người dân tộc lên nương rẫy, cho nên những nơi mà người kinh không dám xử dụng loại xe đó, thì tôi thấy những người dân tộc vẫn hiên ngang đi trên những con đường mà các loại xe đó bị cấm.
Người dân tộc đa số là bằng lòng với số phận của mình. Dọc đường cát bụi, dọc đường thành phố Pleiku tôi cũng nhìn thấy nhiều người, nhiều đoàn đi như thế, đa số là phụ nữ và trẻ em. Họ đi lượm những vỏ chai nhựa, bọc nylông, rác nylông trên những con đường trong thành phố và trong những đống rác, thường thì họ bươi, móc trong các bãi rác để tìm nhôm nhựa và những đố phế liệu, rồi bán cho những nơi thu mua của người kinh, họ kiếm mỗi ngày khoảng từ 10.000 đến 15.000 đồng, và đó cũng là một cách kiếm tiền của người dân tộc nghèo.
Có lần tôi bảo với anh em người dân tộc là nếu cứ làm như thế này là chúng ta sẽ nghèo miết thôi, không thế nào giàu lên được. Thế là có một người dân tộc nói:
- Cha sợ nghèo chứ con không sợ nghèo đâu.
Tôi hỏi:
- Tại sao vậy?
- Tại vì con nghèo quen rồi nên con không sợ nghèo.
Mà thật sự nếu bảo tôi đi bộ 5, 7 cây số thì tôi cũng ngại, nhưng mà người dân tộc đi bộ từ 5 đến 7 cây số là chuyện bình thường, mà họ còn đi rất nhanh nữa là đằng khác. Cho nên điều mà tôi lo ngại là óc cầu tiến không có nơi người dân tộc, vậy nên họ bằng lòng với số phận của họ trong cái nghèo.

* Điều lo lắng thứ sáu: - Học điều tốt thì rất khó. - Học điều xấu thì rất dễ.
Trong khi người kinh thì áo quần hết moden này đến moden khác, rồi giày này dép nọ, tóc tai thì thay đổi đủ kiểu. Nhưng mà người dân tộc, nhất là người lớn tuổi thì không hề thấy những nhu cầu đó là cần thiết. Nhưng bây giờ thì đôi khi tôi cũng thấy thanh niên nam nữ người dân tộc cũng bắt chước những điều này. Cho nên tôi đã có sự lo lắng là: học điều tốt thì rất khó, mà học điều xấu thì rất dễ và rất nhanh, vì điều xấu dễ làm, dễ bắt chước.
* Những điều tốt như học hành, tiết kiệm tiền bạc, gìn giữ vệ sinh, uống nước sạch hoặc nước đã đun sôi để nguội rồi mới uống...v.v đó là những điều tốt có lợi cho sức khỏe của người dân tộc, nhưng cũng khó bắt chước.
Tôi tuyên bố với làng là tôi không bao giờ uống nước nếu chưa được đun sôi. Tôi vào nhà ai mà bảo là nước đó không đun sôi là tôi không uống. Nhưng mà sau này tôi cũng không biết làm cách nào để biết rằng nước đó đã được đun sôi hay chưa? Tiếng thượng chữ sôi phát âm là "srôi". Thế là tôi bảo phải pha lá chè, vì khi nước sôi thì lá chè nó mới ra chất, cho nên tôi chỉ uống nước chè mà thôi, không uống nước đun sôi nếu không có chè.
Có một chuyện làm tôi cũng hơi mắc cười: Có lần tôi ngồi tòa giải tội, một người dân tộc đi xưng tội với tôi:
- Con có ăn cắp chè của người khác.
Tôi hỏi:
- Tại sao đi ăn cắp chè của người khác?
- Thưa Cha, con đi ăn cắp chè để nấu nước cho Cha uống.
Tôi cũng mắc cở mà cũng tức cười. Tôi nói:
- Không, mình phải làm cách nào đó, không thì cha mua chè cho mà nấu chứ không đức ăn cắp chè của người khác.
Tôi thường nhắc nhở với họ:
- Khi vào nhà thờ thì tội ngủ gục cũng không nặng hơn tội không nấu nước sôi cho con mình uống, đó mới là điều có tội, vì nếu uống phải nước ô nhiễm thì cả nhà mình có thể bị bệnh đường ruột, bị đau bụng này kia nọ... Cho nên ngủ gục hoặc lo ra trong nhà thờ cũng không có tội bằng không đun nước sôi cho con mình và cả nhà mình uống. Ai làm biếng đun nước sôi cho con mình uống là có tội. .
Một lần tôi có nhờ Cha Toma Lê Thành Anh giải tội ở làng tôi, trên đường về Ngài cười và bảo:
- Giáo dân của Cha Đông có nhiều loại tội nhỉ.
- Thưa Cha, tội gì cơ?
- "Tôi không đun nước sôi cho con uống 3 lần". Tôi nghe giáo dân của Cha xưng tội như thế.
Tôi gật đầu:
- Đúng, con có nói như vậy. Nếu không có ý thức đun nước sôi cho con mình uống thì đúng là cha mẹ có lỗi với sức khỏe của con cái mình.
Thậm chí tôi còn nói nếu không đi chích ngừa cho con cái là có tội. Tôi giải thích cho họ biết các bệnh như: sốt bại liệt, uốn ván, ban sởi, lao... v.v... là như thế nào, và tất cả những thứ bệnh này thì được y tế xã hội người ta chích ngừa miễn phí cho trẻ em, vậy nên các bà mẹ người dân tộc phải bế con mình đi chích ngừa. Nếu chúng ta chưa hiểu biết được thì chúng ta phải tin nhau, phải đưa con cái mình đi chích ngừa, bởi vì trong làng mình cũng có người bị sốt bại liệt. Vậy nên không chích ngừa cho con cái thì đúng là có tội và tội đó cũng có thể là tội trọng nữa. Như thế thì học được những điều tốt để thực hiện cho mình, cho dân tộc mình thì đúng là điều khó, còn những điều xấu thì rất dễ bắt chước, như là ăn cắp: ăn cắp đậu phộng, lúa trong nhà để đổi lấy tiền đi hát karaokê, đi chơi điện tử thì phổ biến rất nhanh ở trong làng. Hễ em này làm được thì em khác cũng làm được.
Điều tôi rất lấy làm lo lắng là làm thế nào để người dân tộc có được một trình độ hiểu biết là chỉ bắt chước những điều tốt đẹp cho mình, tránh xa những điều có hại cho bản thân, cho gia đình và cho dân tộc của mình nữa.
Chúng ta là những người đi rao giảng Tin Mừng Tình Thương, Tin Mừng Sự Sống. Chúng ta phải cố gắng làm thế nào cho người dân tộc giảm bớt những điều không tốt, và học những điều tốt ngày càng nhiều hơn để thực sự chúng ta là những người đi rao giảng Tin Mừng Tình Thương,Tin Mừng Sự Sống vậy.


... CÒN TIẾP ...