Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2014

NHỮNG ĐIỀU CHIA SẺ - (15) AI ĐÃ DẪN ĐƯỜNG CHỈ LỐI - Lm Phêrô Nguyễn Vân Đông




NHỮNG ĐIỀU CHIA SẺ

15 .
AI ĐÃ DẪN ĐƯỜNG CHỈ LỐI

* Người dân tộc rất yêu thương người thương yêu họ.
* Người dân tộc rất biết ơn người đã giúp đỡ họ.
* Những người dân tộc có hiểu biết thì rất sợ người kinh tới ở gần họ, rồi đưa đường chỉ lối cho con cái họ làm những việc không tốt.
Những nơi có làng dân tộc, thì lúc nào cũng có vài ba cái sạp hàng của người kinh dựng lên bán đủ thứ cho người dân tộc. Trẻ em dân tộc bây giờ có nhiều nhu cầu hơn trẻ em ngày xưa: nào là tivi, rồi karaôkê rồi thì trò chơi điện tử... . Trong khi cha mẹ đi làm suốt ngày, còn trẻ con ở nhà thì thèm coi tivi, thèm chơi điện tử mà lại không có tiền. Từ đó trẻ em người dân tộc dễ trở nên ăn cắp những thứ có trong nhà của mình như: vài cái trứng gà, hay là lấy phân bò đi đổi cho những sạp ở đầu làng để lấy tiền đi chơi điện tử. Và như thế dẫn đến tình trạng một đứa làm được thì nhiều đứa trong làng cũng làm được. Thế nên những người dân tộc có hiểu biết rất lấy làm lo lắng về những người kinh có sạp buôn bán ở đầu làng, vì đã làm hư hỏng con cái của họ.
Nhưng ngược lại có những người kinh thật lòng yêu thương người dân tộc, họ muốn giúp đỡ cho người dân tộc, giúp đỡ cho những người nghèo ở các làng, cũng chỉ đường chỉ lối cho người bệnh ở trong làng thế này thế nọ. Điều này làm cho người dân tộc luôn biết ơn những người kinh đã yêu thương, quan tâm đến họ.
Một lần nọ Mặt Trận Tổ Quốc mời những người dân tộc trí thức họp mặt, tôi cũng có mặt trong buổi họp đó. Một trí thức già người dân tộc ở Gia Lai mà ai cũng biết cụ, tên cụ là Nay Phin. Ngày xưa vào thời Pháp thuộc, cụ là nhà giáo dạy học. Cụ ra Bắc và trở về. Cụ Nay Phin là một người trí thức rất được người dân tộc kính mến. Hôm đó tôi nhận thấy nét mặt cụ không vui khi trong cuộc họp cụ phát biểu một câu như thế này:
- Người dân tộc chúng tôi bây giờ cũng tiến bộ rồi.
Thật tình khi tôi nghe hai chữ "tiến bộ" thì tôi không hiểu tiến bộ về mặt gì? Cụ nói với giọng mĩa mai:
- Người dân tộc mình bây giờ cũng bắt chước người kinh được nhiều thứ lắm. Biết ăn cắp rồi!
Đúng là tôi thấy gương mặt cụ rất buồn khi nói tới điều này. Cụ ngồi trầm ngâm một lúc với ánh mắt đăm chiêu rồi đứng lên nói tiếp:
- Người dân tộc cùa mình bây giờ cũng biết làm cái ruộng nước rồi. Nhưng khi biết làm cái ruộng nước, hay có cái ruộng nước để làm thì không còn ruộng để làm nữa. Lý do là tại sao? Người dân tộc của mình ai cũng thích cái xe Honda, người kinh cũng biết rõ là người dân tộc mình thích cái xe Honda, mà người kinh thì thích có ruộng nước. Người dân tộc không cần giấy tờ đâu. Mình nói bằng cái miệng của mình là được rồi. Thế thì anh có cái ruộng nước, tôi có cái xe Honda. Xe của tôi là xe mới (xe người ta làm cho có vẻ mới). Thế là trao đổi với nhau, người dân tộc thì có xe để chạy, người kinh thì có ruộng nước để làm. Nhưng một thời gian sau, vì người dân tộc không biết xử dụng xe, mà nhiều khi chiếc xe lại là xe cũ nữa, cho nên mấy tháng sau là xe bị hư không chạy được, mà ruộng thì cũng mất luôn.
Cụ thở dài rồi ngồi xuống, không nói nữa.
Bởi vì tôi cũng rất thương anh em người dân tộc, và tôi nhận thấy những điều cụ nói là đúng, lòng tôi cũng ngậm ngùi, cho nên trong giờ giải lao tôi hỏi cụ:
- Chúng ta phải làm gì bây giờ? Tôi thương anh em người dân tộc hết sức.
Cụ biết tôi là Linh Mục, cụ nói với tôi mà nét mặt đầy ưu tư lo lắng:
- Nói thật với Linh Mục là tôi muốn nói nhiều hơn nữa nhưng mà tôi nghĩ... tôi mắc cỡ nên tôi không nói. Con gái người dân tộc của mình bây giờ cũng bị người kinh rủ rê đi làm đĩ, mà làm đĩ thì mau có nhiều tiền hơn là làm ruộng. Mà làm đĩ là bị SIDA rồi, nhưng mà nó thì không biết SIDA là cái gì?...
Tôi thấy cụ buồn rầu, lo âu vì cụ rất thương người dân tộc của mình nên tôi cũng chạnh lòng. Mỗi khi tới mùa làm cỏ cà phê, mùa tưới cà phê hay tới mùa hái cà phê, thì người kinh ở các nơi đổ xô tới Gia Lai, là vùng mà người ta trồng rất nhiều cà phê. Họ đổ dồn về đó để làm thuê làm mướn kiếm tiền. Người kinh ban ngày đi làm mướn, nhưng ban đêm thì cũng tìm cách kiếm thêm "thu nhập", tức là đi ăn trộm chỗ này chỗ kia, gặp bất cứ thứ gì lấy được là lấy. Khi đi thì rủ 3, 4 thanh niên trong làng đi theo, đầu tiên là rủ đi ăn cho vui. Người dân tộc mà có ai đó quen biết rủ đi ăn là vui lắm. Rồi người kinh tổ chức đi ăn trộm dẫn theo mấy em dân tộc. Khi bị bại lộ người kinh co giò chạy trốn mất tiêu, còn mấy em dân tộc đứng lóng ngóng ở đó thì bị hốt hết... Đúng là bị oan, cũng còn may phước vì chính quyền hiểu được điều này, chớ không thì tội nghiệp cho nó, nó bị người ta dẫn dụ đi theo chớ nó không phải là kẻ chủ động đi ăn trộm.
Có những người kinh không tốt đã mướn các em nhỏ người dân tộc, vì họ biết các em này cũng cần tiền để thỏa mãn những nhu cầu này, nhu cầu khác. Họ sắm đèn pin cho nó để ban đêm nó đi hái trộm cà phê. Người dân tộc xem rừng như là nhà mình mà, nên khi nó đi hái trộm cà phê, nếu có ai rượt thì nó chạy cũng nhanh và dễ, còn nếu như nó hái trộm được thì sáng hôm sau những người đó tới làng mua cà phê đó với giá rẻ. Đó là dạy người ta, nhất là dạy cho con nít đi hái trộm.
Tôi nhớ có một lần tôi hỏi một làng dân tộc:
- Tại sao làng mình gần cái rẫy cà phê đó, mà người ta bảo mình đi hái trộm cà phê của người ta?
Qủa thật là những người làng nói:
- Mình không biết đâu, mấy đứa nhỏ nó đi làm điều đó. Bây giờ mình biết rồi, mình sẽ nói với con mình thôi, mình không biết gì đâu.
Ai đã dẫn đường cho ai?
Dọc đường tôi thấy mấy người dân tộc là giáo dân của tôi đi bán mật ong. Tôi dừng lại nhìn mấy chai mật... trời ơi! Cái chai thì đã củ sì mà cũng không sạch sẽ gì, rồi thì có mấy chút bánh sáp, rồi có thêm mấy con ong chết nằm trong chai mật đó nữa. Tôi cứ tưởng là người dân tộc đi lấy mật ong ở trong rừng về. Tôi bảo:
- Đem tới nhà Cha đi, Cha sẽ mua một ít.
Mấy người dân tộc này biết tôi nên nói với tôi:
- Không có đâu, người kinh nó mướn mình đi bán đó. Bán 1 chai thì nó cho mình 5.000 đồng. Một chai là mấy chục nghìn. Cha đừng có mua, của người kinh đó, không phải của người dân tộc đâu.
Tôi tức cười và tôi dặn người dân tộc không được làm như thế.
Người dân tộc trồng rau là không bao giờ xịt các thứ thuốc trừ sâu nọ kia. Rau còn nhỏ là họ đã nhổ đi bán rồi. Người kinh thấy vậy nên rất thích mua rau củ hoặc trái cây của người dân tộc vì nó không có chất hóa học, chất tăng trưởng gì đó. Nhưng bây giờ người dân tộc cho biết là người kinh cũng mướn người dân tộc đi bán rau của người kinh trồng, mà người dân tộc đi bán rau thì người ta thích mua hơn vì nghĩ là rau của người dân tộc trồng không có thuốc trừ sâu.
Ai đã dẫn đường cho ai?.
Ngày xưa tôi học về Tâm lý học thì tôi được biết như thế này: Người tốt thường nghĩ ai cũng tốt như mình. Bản chất người dân tộc là tốt, cho nên họ nghĩ ai cũng tốt như họ, và vì thế mà người tốt hay bị mắc lừa. Ai lừa họ? Những người xấu bụng hay lừa những người tốt để trục lợi cho mình, nên người dân tộc hay bị mắc lừa là như vậy. Người gian xảo quỉ quyệt thì thường hay nghĩ ai cũng xảo quyệt như mình, cho nên họ nghi kỵ người khác cũng có tính gian xảo giống họ. Tục ngữ Việt Nam có câu:" suy bụng ta ra bụng người" là như thế.
Năm 1986 tôi phụ trách một làng dân tộc là làng Ea Luh, Xã Nghĩa Hưng bây giờ. Làng này xưa kia ở gần Biển Hồ; Pleiku, đấy đai nơi đây mấu mỡ tốt tươi, người dân tộc lập làng canh tác trồng trọt ở đây từ mấy mươi năm về trước, cuộc sống của họ rất ổn định. Nhưng sau này thì chính quyền lấy đất này của họ, rồi dời họ vào gần một chân núi. Đất đai nơi chân núi này lại quá khô khan cằn cỗi, ở đây có một hồ nước do nhà nước ngăn giòng để chứa nước. Dân làng cũng góp công rất nhiều để làm đập giữ nước lại. Nhưng mà tất cả mọi sinh hoạt đều dùng từ nguồn nước này, phía dưới đập có giọt nước, nhưng nước cũng từ hồ này chảy ra, giặt giũ cũng tại hồ, rồi tắm rửa cũng tắm trên hồ, thậm chí bò cũng tắm trên hồ này luôn, nghĩa là tất cả nhu cầu dùng nước đều dùng ở hồ này. Và vì thế mà dân làng thường mắc bệnh về đường ruột, nhất là họ bị ghẻ, mọi người đều có ghẻ.
Tôi đã tìm mọi cách để có nguồn nước sạch cho họ. Tôi bắt đầu đào giếng và khuyên mọi người nên uống nước giếng vì nước giếng sạch hơn, Nhưng khổ nỗi có chỗ thì đào giếng được, có chỗ không đào được. Còn dân làng thì vẫn thích uống nước giọt hơn, thích tắm hồ hơn là tắm giếng... Vì hôm nay thì gàu bị đứt dây, ngày mai thì con gà nó rớt xuống giếng, mà cũng không biết làm sao để lấy con gà lên, họ lại bỏ không uống nước giếng nữa.
Đến năm 1994 một lần tôi tình cờ leo lên một ngọn núi gần làng, tôi thấy có con suối nhỏ ở trên đó. Bởi vì gần làng Ea Luh có 2 con suối chảy. Nói suối nghe có vẻ lớn vậy, chứ thực ra nước nó chảy như 2 con mương thì đúng hơn, được cái là quanh năm luôn có nước vì nhờ nguồn nước từ trong núi chảy xuống. Tôi nảy ra ý nghĩ: đem nước sạch từ núi về làng. Tôi cho người lên đo đạc kỷ lưỡng, từ nơi nguồn nước chảy về làng có độ cao chênh lệch là 32 mét, như vậy là dư sức để đưa nước về làng. Nhưng gặp khó khăn là có 2 cái vực, tại 2 cái vực đó chúng tôi phải treo ống từ bờ bên này sang bên kia.
Dân làng đồng ý và chúng tôi thực hiện việc treo đường ống dài 3km. Công trình này vào thời điểm đó tốn hết 100 triệu đồng. Ống dẫn nước về làng loại 100. Khi dẫn nước về đầu làng, chúng tôi xây một hồ chứa, để cho dân làng hằng ngày đi làm nương rẫy về, sẽ tập trung ở đó mà tắm rửa, lấy nước... Sau đó thì chúng tôi dẫn nước từ hồ về tận làng, có 14 điểm, tôi cho xây trụ đàng hoàng, có gắn rôbinê để mở và khóa nước.
Công trình hoàn thành, chúng tôi rất vui mừng.
Hôm đó là ngày lễ Hiển Linh, chúng tôi dâng Thánh Lễ để "khai trương" đường nước này, ngay tại địa điểm của hồ chứa nước.
Tôi dặn người ở đầu nguồn nước:
- Tôi dâng lễ từ 9 giờ đến 10 giờ thì xong. Lúc đó mà nước chảy về tràn hồ chứa nước thì chắc là dân làng vui mừng lắm.
Sáng hôm đó tôi dâng lễ và tuyên bố:
- Chút nữa sẽ có nước về làng của mình, nước chảy suốt ngày suốt đêm.
Tôi đang cho rước lễ thì nước tràn hồ, nước từ 10 cái ống xả trào ra. Dân làng rước lễ xong,, ai cũng đến chỗ hồ chứa nước đưa 2 tay ra dưới cái rôbinê hứng nước vuốt vào mặt mình. Lúc đó tôi cũng "lo ra" nhưng vẫn tiếp tục dâng thánh lễ. Khi xong lễ thì tất cả chúng tôi: Linh Mục cũng như giáo dân ra đứng chung quanh hồ, cùng nhau hát vang những bài ca tạ ơn Thiên Chúa đã cho nước sạch về tới làng.
Và từ đó, do được dùng nước sạch từ đầu nguồn dẫn về nên sốt rét cũng hết, ghẻ cũng hết và những bệnh về đường ruột cũng hết.
Nhờ đường nước chảy suốt ngày đêm nên cây cối trong làng xanh tốt quanh năm và có nhiều cây nhất so với các làng khác. Rồi một sáng kia khi thức dậy không thấy có nước nữa. Mùa cà phê năm đó xuống giá. Những người đi hái cà phê mướn bị thất nghiệp, vì không được ai thuê mướn nhiều cho nên không có tiền, đã rủ nhau đi cắt trộm đường ống dẫn nước của chúng tôi để bán nhôm, nhựa.
Sáng đó dân làng đi theo đường ống nước lên núi thì thấy một đoạn khoảng 50m bị cắt mất nên nước không chảy về làng được. Dân làng biết chắc chắn là người kinh đã cắt trộm đường ống nước của họ, nhất định là như thế, nhưng đi tìm khắp nơi mà vẫn không thấy. Tuy nhiên khu vực này dù đi đâu thì cũng phải qua một cây cầu ngay đầu làng, không có con đường nào khác, và cây cầu này nó nhỏ nên chỉ có xe Honda đi được mà thôi.
Ngày hôm đó cũng có nhiều xe Honda đi qua làng. Dân làng cắt cử người canh tại cầu. Đến gần trưa thì họ thấy có một người chở một cái bao khá to, họ chận người đó lại, mở bao ra và thấy đường ống nước của làng mình đã bị cắt ra từng đoạn để bán đồ nhựa. Người ta liền giữ anh xe thồ này lại, anh ta cương quyết không khai ra là ai đã mướn anh. Người dân tộc trong làng thì đơn sơ, đi báo công an xã nhưng chờ mãi mà công an xã không vào, dù họ chỉ ở cách làng có 3 cây số mà thôi.
Buổi trưa dân làng về ăn cơm, phân công cho một anh thanh niên trong làng giữ anh xe thồ và chìa khóa xe Honda của anh ta lại, định rằng sẽ điều tra cho ra và bắt bồi thường đường ống nước đó. Người xe thồ này thấy chỉ còn một người thanh niên canh giữ, bèn nói rằng:
- "Xe tôi bị chảy xăng, cho tôi tới xe để tôi khóa xăng ". Anh dân tộc này thì đơn sơ, nghĩ là mình đã giữ chìa khóa xe rồi thì sợ gì nữa kia chứ nên đồng ý. Anh xe thồ tới xe và nối sợi dây điện gì đó trong xe, rồi anh ta đạp một cái, xe nổ là chạy luôn, bỏ lại bao nhôm nhựa.
Chiều tôi vào làng thì người làng báo cáo với tôi khi mọi chuyện đã xong xuôi hết rồi. Tôi nói:
- Biết ai bây giờ... số xe là số mấy?
- Mình thấy xe có số mà mình không biết số xe là số nào.
Qua câu chuyện này thì người trong làng càng thêm có ác cảm đối với người kinh.
Đôi khi người dân tộc tâm sự với tôi:
- Con không ưa người kinh, người kinh vô làng của con, cái ổ gà của con đang ấp vậy mà nó bưng đi hết cả ổ gà luôn, vào trong làng con mà bắt không còn một con chó nào. Lần đầu tiên trong làng con mất một con bò, khi mất con bò cả làng đi tìm hết, tìm khắp nơi, rồi thì thấy con bò bị người ta chặt đứt gân chân luôn, con bò nó lết về tới nhà nên không mất. Làng nói đó là người kinh vì người dân tộc chúng con không bắt bò của nhau.
Từ những việc như vậy đã đem đến những sự nghi kỵ lẫn nhau giữa người kinh và người dân tộc. Luôn luôn chúng tôi cố gắng nói cho họ biết là con người, thì có người tốt và người không tốt. Người kinh cũng thế và người dân tộc cũng thế; cũng có người tốt và người không tốt... Nhưng thường thì những điều đó tôi không thuyết phục nổi, bởi vì đa số những việc không tốt xảy ra trong làng của họ đều do người kinh gây ra.
Cuối cùng thì chính tôi cũng phải bỏ tiền ra đề sửa lại đường ống nước, và dân làng sử dụng cho đến bây giờ.
Tôi nói những điều này với là muốn chia sẻ rằng: thật sự thì chúng ta có trách nhiệm và bổn phận, ngay cả khi chúng ta là những người thương yêu giúp đỡ cho người dân tộc, chúng ta cũng phải có trách nhiệm nâng cao trình độ của người dân tộc, như là: biết giữ xe thế nào, biết ghi lại số xe của kẻ ăn cắp để nhà nước họ điều tra.

... CÒN TIẾP ...

NHỮNG ĐIỀU CHIA XẺ - (14) BUÔN THƯỢNG - Lm Phêrô Nguyễn Vân Đông



NHỮNG ĐIỀU CHIA SẺ

14 .
BUÔN THƯỢNG

Những ai ở lâu trên vùng đất Kontum thường nghe nói tới một từ gọi là "Buôn Thượng". Nghĩa là nói tới việc người kinh buôn bán với người thượng.
Trước khi các vị Thừa Sai đi rao giảng Tin Mừng cho vùng Tây Nguyên thì các đoàn đi buôn, là người An Nam cũng đã tổ chức những đoàn buôn từ miền xuôi - tức là từ đồng bằng - đem những sản phẩm như: muối, cá khô... v.v... lên trao đổi buôn bán với người Thượng. Thầy Sáu Do cũng đã có lần vì muốn tìm hiểu đường đi nước bước của vùng Tây Nguyên, để đưa các vị Thừa Sai lên truyền giáo ở trên đó, nên Thầy nhập vào một đoàn đi buôn của người An Nam, thầy phải làm công việc khuân thuê, vác mướn cho họ, bởi vì hồi đó không có xe cộ nên mọi thứ hàng hóa đều phải gánh, khiêng hoặc mang. Đoàn này lên các vùng rừng núi Tây Nguyên để buôn bán với người Thượng. Buôn bán nhất định là phải có lợi nhuận, cho nên khi nói tới từ "buôn Thượng", thì người ta nghĩ ngay đến những người kinh buôn bán với người thượng, thường thì không có sự công bằng vì lúc nào người kinh cũng tìm cách ăn lời quá mức.
Chúng ta cũng nên nhớ rằng thời xưa, cách đây 40 năm trở về trước, các tình Pleiku, Kontum; Phú Bổn là 3 tỉnh, nhưng nay thì nhập lại thành 2 tỉnh. Tỉnh Gia Lai gồm 2 tỉnh Phú Bổn và Pleiku. Tỉnh Kontum là ranh giới của tỉnh Kontum cũ. Hồi đó rất ít người kinh, mà người Thượng là chính. Bây giờ thì tỉnh Kontum và tỉnh Gia Lai có 25.000 km2, với dân số là 1.600.000, cả người kinh và người Dân Tộc. Hiện nay thì dân số người kinh bằng số người dân tộc.
Ngày xưa mỗi khi người dân tộc muốn dựng làng để ở thì họ luôn luôn dựng ở gần rừng, hồi đó toàn là rừng già. Vì người dân tộc không biết và cũng không có thói quen đào giếng nên khi dựng làng của mình, họ luôn tìm những nơi gần sông, suối, hoặc ở gần những nới có nước giọt, tức là nơi có mạch nước từ trong rừng rậm chảy ra suốt ngày. Nhu cầu của người dân tộc khi dựng làng là phải ở gần sông suối, đồng thời cũng phải ở gần rừng nữa, vì họ sống cũng nhờ vào những thứ có trong rừng.
Người Việt Nam chúng ta thường hay nói "rừng vàng biển bạc". Rừng có nhiều của cải cũng như biển vậy. Người dân tộc sống gần rừng, khi hết lúa, hết gạo thì họ lại vào rừng, vì ở trong rừng có nhiều thứ. Cho nên của cải ở rừng cũng cần cho người miền xuôi, và của cải ở vùng biển cũng cần cho người miền núi. Vậy nên đã có những cuộc trao đổi mua bán. Vì thế mà có những đoàn người gọi là đi "buôn Thượng".
"Măng le gởi xuống, cá chuồn gởi lên" là như thế, nhưng người dân tộc thì không hề biết buôn bán, họ sống rất đơn sơ, không có hệ thống tiền bạc. Họ chỉ biết đổi chác mà thôi. Người kinh thì lanh lợi hơn, lại biết buôn bán, cho nên trong những cuộc trao đổi hàng hóa ấy thì chúng ta thấy rõ phần lợi nghiêng về phía người kinh.
Lâu nay tôi nghe nói những người buôn thượng là những người mau làm giàu. Khi mà người thượng còn nhiều rừng, còn đốt rẫy được, thì lúc đó của cải của người dân tộc còn dồi dào. Nhưng bây giờ đất đai là do nhà nước quản lý, kể cả cây cối trong rừng cũng vậy, và như thế đời sống của người dân tộc trở nên khó khăn, vì bây giờ họ không còn được tự do vào rừng để tìm cái ăn như ngày trước, mà sông suối phần thì cạn kiệt, phần thì ô nhiễm... Cuộc sống của người dân tộc hoàn toàn bị xáo trộn. Bây giờ người kinh lên lập nghiệp trên vùng Tây Nguyên càng ngày càng nhiều, nơi nào có làng dân tộc thì lập tức có người kinh đến đó đóng chốt để mua bán, làm ăn... Tôi nói ví dụ: Bây giờ người kinh ở gần người dân tộc, nếu như người dân tộc sa cơ, trong nhà có người bệnh cần chữa trị nên phải mượn tiền của người kinh, lúc đó người kinh cho vay và lấy lãi rất cao, nếu người dân tộc thiếu lúa ăn thì người kinh cho mượn 1 thùng, đến khi trả thì phải trả 2 thùng. Tới mùa gặt thì người kinh đem bao bị chờ sẵn trên bờ ruộng để lấy cho bằng được số lúa đã cho vay, cả vốn lẫn lời.
Với cách tính toán của người kinh như thế thì phần thiệt thòi lúc nào cũng nằm về phía người thượng.
Trong trận bão lụt năm 2009 tại Kontum, có những người Thượng cần tiền để cho con đi học tiếp, hoặc cần tiền để sinh sống, thì họ thường đem sổ đỏ đất đai của mình thế chấp cho người kinh, khi tới ngày trả thì phải chịu một cái giá tiền lời như thế nào đó thì mới lấy lại được sổ đỏ. Nhưng mà thường thì họ bị mất luôn sổ đỏ, bởi vì họ không có tiền nên không có cách nào để chuộc lại sổ đỏ của mình. Vậy nên luôn luôn phần lợi cũng nằm về phía người kinh. Đức Giám mục Kontum đã nói với các Linh Mục là phải tìm mọi cách chuộc lại sổ đỏ, giấy tờ đất đai của người dân tộc rồi đưa trả cho họ. Có như thế thì mới cứu được gia đình người dân tộc nghèo, và chúng tôi đã cố gắng hết sức: Thứ nhất là không để cho người dân tộc lấy sổ đỏ đi thế chấp kiếm tiền. Thứ hai Caritas Kontum đã bỏ ra gần 500 triệu đồng để giúp sức cho học sinh, sinh viên người dân tộc đi học xa nhà. Đến bây giờ thì mùa màng nương rẫy của gia đình họ bị mất hết, không còn thứ gì để cho con đi học. Vậy nên qua sự giới thiệu của các Linh Mục, cũng như các nữ tu tại địa phương, đã giúp được cho anh này, hay cô nọ... có thể tiếp tục việc học hành của mình.
Chúng tôi đã làm công việc vừa giải thích, vừa tạo ý thức cho anh em người dân tộc, trong hoàn cảnh như vậy phải biết sống tiết kiệm để khỏi lấy sổ đỏ của mình đưa cho người kinh, thì người kinh sẽ không có cơ hội lấy được đất đai của mình.
Tôi có quen một gia đình người dân tộc, khi vợ anh ta đau yếu thì anh ta cần phải có tiến để chữa bệnh cho vợ. Anh ta có một rẫy cà phê khoảng 1 sào, mà cà phê còn 2 tháng nữa mới thu hoạch. Khi đó tôi không có ở nhà, anh nói với người cho vay là anh cần 2 triệu, người này thấy anh cần tiền nên ép anh, chỉ chấp nhận đưa cho anh có 1 triệu mà thôi. Cuối cùng ví quá cần tiền nên anh đồng ý giá 1 triệu. Nhưng đến thời hạn trả tiền thì anh không có tiến, thế là chỉ 2 tháng sau người kinh này bán lại rẫy cà phê với giá 7 triệu.
Cuối cùng thì phần thua thiệt bao giờ cũng ở về phía người dân tộc.
Người kinh biết đo đạc, biết diện tích là bao nhiêu, chu vi là thế nào. Còn người dân tộc thì không biết gì về những điều đó.
Tôi biết chuyện có người dân tộc muốn bán đất cho người kinh, người này hỏi:
- Anh bán miếng đất đó là mấy sào? Rộng bao nhiêu mét vuông?
Anh trả lời:
- Mình không biết đâu. Mình chỉ bán từ cây bơ tới cây vú sữa rồi chạy thẳng tới dưới suối thôi.
Tôi đoán như vậy cũng khoảng chừng 3 sào.
Người kinh này vốn rất thủ đoạn, ngõ ý muốn kết nghĩa anh em với người dân tộc kia, 2 người làm một cái lễ gọi là lễ "đeo còng" để kết nghĩa anh em. Người kinh đó làm điều này là có ý lợi dụng người dân tộc, để mua rẻ đất mà làm ăn. Về phía người dân tộc lại khác, một khi đã kết nghĩa anh em và đã đeo còng cho nhau thì đây là một điều vô cùng thiêng liêng và họ rất trân trọng.
Có một điều rất thiệt thòi cho người dân tộc là họ không biết viết giấy tờ, nên để cho người kinh viết, và khi viết thì bao giờ người kinh cũng viết như thế nào để phần lợi thuộc về họ: Bờ rào ở giữa, đất anh ở bên này, đất tôi ở bên kia... và người kinh làm một đường dây thép gai ở giữa, sau đó vợ chồng người kinh mua cây cà phê con rồi chờ đến ban đêm đào lỗ trồng xuống, kéo bờ rào qua bên kia... cứ thế...
Người dân tộc nói với tôi:
- Không biết làm sao mà đất của mình càng ngày càng ít, mà đất của nó càng ngày càng nhiều.
Theo kinh nghiệm của tôi thì tôi thấy như thế này: Những người buôn thượng thì mau giàu có, nhưng giàu mà phi nghĩa thì của cải không thể tồn tại được lâu.
Trước năm 1975 tôi cũng biết một số người buôn thượng rất giàu nhưng cuối cùng cũng tán gia bại sản. Rồi sau này cũng vậy. Từ lúc tôi xuống Gia Lai là năm 1986, tôi cũng biết rõ nhiều người, kể cả những người có đạo mà buôn bán không công bằng, lại có ý gian lận với người nghèo thì cũng đi đến kết cuộc là tán gia bại sản.
Bài này tôi nói lên đây để chúng ta thấy rằng trong buôn bán thì bao giờ người kinh cũng nắm đằng chuôi, và người thượng vì không biết buôn bán nên lúc nào họ cũng nắm đằng lưỡi, chịu đủ thứ thiệt thòi.
Chương trình của tôi là giúp cho người dân tộc nghèo. Tôi thấy có nhiều người kinh tốt bụng cũng luôn yễm trợ cho cách làm này để giúp đở cho người dân tộc. Ví dụ như sắn lát (mì lát), khi tôi biết một làng nào đó có chặt củ mì lát phơi khô, tôi thường bảo người kinh tốt bụng đến cân số mì đó là bao nhiêu, như của anh Mok, của anh H'Dung, của anh Róa... là bao nhiêu... v.v... Rồi tôi nhập chung lại và nói với chủ hãng chế biến thức ăn cho gia súc, người này rất tốt bụng, anh nói:
- Cha không cần phải phân loại 1, loại 2, loại 3 làm gì. Con sẽ xay chung các loại với nhau hết, nhưng vì buôn bán nên con phải nói như vậy. Cha bảo người dân tộc phơi thật khô và con sẽ mua của họ với giá cao nhất.
Và như thế là tôi đã làm điều này rất nhiều lần, sao cho người dân tộc được bán mì lát phơi khô với giá cao nhất. Con buôn đôi khi cũng thấy khó chịu vì việc tôi đã làm. Nhưng tôi thấy người dân tộc rất mừng, có người khoe với tôi:
- Con chưa bao giờ bán mì mà có được nhiều tiền như vậy.
Và họ sẳn sàng cho tôi tiền. Tôi bảo:
- Không, Cha chỉ giúp anh em thôi, nhưng một khi anh em làm được như thế thì anh em mới có tiền cho con mình ăn học, rồi còn sửa lại cái nhà của mình nữa chớ.
Người dân tộc trồng rất nhiều chuối, khi người kinh vô làng mua chuối thì mua với giá rất rẻ. Mỗi khi tôi đi làm lễ trong làng nào đó, tôi thường gom chuối lại đem về. Buồng này là của ai?... Buồng này của ai?... Tôi có thể bán dùm cho họ với giá cao hơn. Đằng khác chúng tôi cũng tìm mọi cách giúp họ, ví dụ người dân tộc muốn mua một chiếc xe gắn máy hay một thứ gì đó, chúng tôi cũng nhờ các nữ tu, hoặc các Linh Mục trao đổi và giúp họ mua món hàng sao cho đúng với giá trị của nó, xứng với đồng tiền họ phải bỏ ra, không để cho ngưởi khác lừa gạt người dân tộc để lấy tiền của họ.
Buôn thượng bây giờ cũng có nhiều cách nhiều kiểu, nhưng cách nào đi nữa thì người dân tộc luôn luôn chịu nhận lấy phần thiệt thòi.
Hôm nay tôi chia sẻ như vậy. Tôi rất cám ơn những anh em người kinh tốt bụng đã luôn thương yêu anh em người dân tộc bằng nhiều cách, như một giáo xứ người kinh đỡ đầu cho một làng dân tộc, giúp cho con họ được đi học, hay là giúp cho họ khi đau yếu. Tôi cũng thấy các bác sĩ công giáo trong thành phố Pleiku luôn sẵn sàng đón nhận anh em dân tộc trong nghề nghiệp của mình, luôn tạo điều kiện giúp đỡ cho người dân tộc. Các bác sĩ này đúng là đã có lòng tốt đối với anh em người dân tộc nghèo.
Ứơc gì có nhiều người kinh chịu chấp nhận phần thiệt thòi về mình dù chỉ là một chút ít, để cho anh em người dân tộc nghèo được có phần hơn. Đó chính là Rao Giảng Tin Mừng Tình Thương và cũng chính là Rao Giảng Tin Mừng Sự Sống.
 
    * NHÀ CỦA NGƯỜI DÂN TỘC NGHÈO * 
    
  
  *CHA CON TA CÙNG NHAU ĐƯA NƯỚC SẠCH VỀ LÀNG *

[Cảm ơn hai em Nguyễn Sơn Phi và Nguyễn Quốc Vũ, là người nhà Cha Đông. Theo lời yêu cầu của tôi, hai em đã gởi cho tôi một số hình ảnh về "Những điều chia sẻ" cho Mùa Đông ấm áp. Ước mong sao người đọc sau khi xem những tấm hình này: Tâm hồn sẽ rộng mở cùng với một tấm lòng yêu thương chân thành, để đến với những người dân tộc nghèo một cách chân tình.

Hồ Thủy]            

... CÒN TIẾP ...

NHỮNG ĐIỀU CHIA XẺ - (13) MÓN QUÀ TUY NHỎ MÀ NIỀM VUI THÌ RẤT LỚN - Lm Phêrô Nguyễn Vân Đông



NHỮNG ĐIỀU CHIA SẺ

13 .
MÓN QUÀ TUY NHỎ
MÀ NIỀM VUI THÌ RẤT LỚN

Tâm lý của con người thì khi trao tặng ai một món quà gì đó, mà người ta tỏ ý vui mừng đón nhận và trân trọng món quà mình tặng, xem như người ta biết giá trị món quà mà họ nhận từ mình, thì người tặng quà bao giờ cũng cảm thấy vui trong lòng.
Những câu chuyện tôi kể sau đây là: khi người dân tộc nghèo nhận một món quà họ tỏ lộ niềm vui sướng, thì tự nhiên người tặng quà cũng muốn đến với họ lần nữa, và tìm cách có gì đó để giúp đỡ cho người dân tộc ấy.. Với tâm lý đó, mình hay suy nghĩ: Khi mình có quà thì mình sẽ dành cho làng này, đem cho làng nọ, để dành cho trường hợp này hoặc cho trường hợp kia...
Bởi vì có một thời kỳ tôi luôn luôn tìm mọi cách giúp đỡ cho người dân tộc nghèo được mua những thứ nhu yếu phẩm hằng ngày với giá rất rẻ bằng cách mua sỉ giúp họ, và tôi còn tìm mọi cách để giúp họ tiêu thụ những mặt hàng họ có với giá cao nhất có thể. Tôi nghĩ đó là cách giúp đỡ họ hữu hiệu nhất. Nhiều lần tôi đã mua mắm ruốc, cá khô ở những nơi mà tôi cho là giá thấp nhất. Chẳng hạn như cá khô, mắm ruốc từ Qui Nhơn, Nha Trang. Và mỗi khi mua thì chúng tôi mua cả tấn mắm ruốc hoặc cá khô.
Mỗi một lần như vậy chúng tôi chở tới làng nhưng không tính tiền xe, chỉ tính tiền hàng theo giá sỉ cho nên người dân tộc cũng rất được nhờ, vì được mua nhu yếu phẩm với giá thấp nhất. Đôi khi các con buôn người kinh ở các làng cũng không bằng lòng lắm với công việc của chúng tôi vì phá giá của họ. Nhưng thật sự là chúng tôi không có buôn bán, chúng tôi chỉ giúp đỡ cho người nghèo mà thôi. Như là chúng tôi chở chuối về Pleiku chẳng hạn, chúng tôi nhờ chỗ này; chỗ kia mua giúp, nhất là các cộng đồng Dòng tu có nhà nội trú, để có thể mua giúp cho người dân tộc chuối hoặc các sản phẩm khác của họ ở mức giá cao nhất có thể.
Lần đó cũng là dịp gần Noen, tôi đi bằng chiếc xe tải nhỏ của tôi, chở nào là khô cá nục (nữa ký một gói), nào là ruốc sả ( chúng tôi mua mắm ruốc về rồi nhờ các bà trong giáo xứ Đức An chịu khó làm ruốc sả cho tôi, món ruốc sả gồm có: thịt heo, có mắm ruốc, có sả, có ớt... mà người dân tộc gọi là ruốc cao cấp). Chúng tôi làm một hủ ruốc chừng nữa ký và để lại cho họ với giá rẻ y như giá mắm ruốc thường vậy, còn phần "độn" thịt, sả, ớt... thì chúng tôi cho thêm vào, xem như là giúp đỡ người nghèo. Riêng những bà mẹ đã mang thai mà nghèo thì chúng tôi biếu cho họ, để họ có cái ăn mà sinh con cho mạnh khỏe.
Chúng tôi đi Kon Jơ Dreh tỉnh Kontum, trên xe có 3, 4 thầy Dòng Chúa Cứu Thế từ Sài Gòn lên tham quan Kontum. Tới giáo xứ Kon Jơ Dreh thì không có ai ở nhà. Cha Gioan Kim Nguyễn Thúc Nên và các Yá (Yá là nữ tu người dân tộc) tôi quen biết cũng đi lao động trên nương rẫy. Chỉ có 2 em trai nhỏ người dân tộc rất dễ thương, chừng 8, 9 tuổi là ở lại coi nhà. Vì không có ai ở nhà nên tôi gởi các thùng hàng cho 2 em nhỏ: một giỏ cần xé khô cá nục và các thùng đựng các lọ mắm ruốc xả.
Tôi ghi tờ giấy gởi cho Yá Gabriel là có bao nhiêu gói cá, bao nhiêu lọ mắm ruốc. Tôi chuẩn bị đi thì thấy 2 em nhỏ nhìn giỏ cần xế cá nục, tôi thấy các em có vẻ rất thích cho nên tôi lên xe lấy 2 gói đem xuống và nói:
- Cha cho các con mỗi đứa một gói.
Hai em nhìn tôi và hỏi:
- Cha cho thật?
Tôi gật đầu bảo:
- Cha cho thật mà.
Và các em lấy mỗi đứa một gói rồi cười rất tươi và rất mừng. Tôi cũng cười rất vui vì thấy các em vui mừng.
Rồi nó nói với tôi:
- Con sẽ mang về cho mẹ.
- Được rồi, con mang về cho ai cũng được vì cái này là của chúng con.
Trở lại xe đang nổ máy chuẩn bị đi. Một thầy Dòng Chúa Cứu Thế nói:
- Con định chụp một tấm hình mà không kịp, chỉ có một gói cá nhỏ thôi mà Cha cũng cười, 2 em nhỏ cũng cười, đôi mắt rất sáng. Cha ơi! Cha hạnh phúc hơn chúng con vì Cha có nhiều niềm vui hơn chúng con. Nếu vào dịp lễ Noen này mà Cha về Sài Gòn, sau đó Cha tập trung các em nhỏ khoảng chừng 7;8 tuổi ở nhà thờ rồi Cha nói: Noen này Cha không có gì để tặng cho các con, Cha chỉ tặng cho các con mỗi đứa một gói cá khô... chắc các em sẽ nói Cha bị... mát mát... hâm hâm... gì rồi, ngày lễ Noen mà tặng cá khô?... Nhưng ngược lại ở nơi đây là một niềm vui rất lớn.
Có một lần tôi giải tội trong mùa Giáng Sinh. Gần lễ Giáng Sinh nên tôi không giải tội trong nhà thờ, vì các giáo dân đang dọn dẹp trang hoàng rất ồn ào, nên tôi giải tội trong phòng khách của nhà xứ. Người xưng tội cuối cùng là một thiều nữ dân tộc chừng 12, 13 tuổi. Mùa Noen thì lạnh, mà càng về trưa trời càng lạnh.
Hôm đó em xưng tội và tôi biết em là người dân tộc. Tòa giải tội của tôi nó rung rinh như người bị sốt rét mà run vậy. Tôi cứ nghĩ chắc em này bị sốt rét và em cũng là người xưng tội cuối cùng, em đã chờ từ sáng cho tới trưa mới đến lượt của em, khi giải tội xong tôi thấy em chỉ mặc một cái áo rất mỏng. Tôi hỏi em:
- Con không có áo lạnh sao?
Người kinh gọi là áo ấm vì cái áo làm cho ta ấm, còn người dân tộc gọi là áo lạnh vì mùa lạnh mới mặc áo đó. Em trả lời tôi :
- Nhà con có một cái áo lạnh, thường thì ai đi ra ngoài mới được mặc, nhưng hôm nay mẹ con bị bệnh nên con để cho mẹ con mặc, mẹ con ở nhà.
Tôi nói với em:
- Con chờ Cha một chút.
Rồi tôi vào kiếm được một cái áo măng tô tương đối còn mới, nó dài trên đầu gối của em một chút và rất vừa với em. Tôi bảo:
- Cha cho con cái áo này.
Em nhìn cái áo và nó rất vui mừng, tôi đưa nó mặc thử, nó mặc vào sau đó nó cởi ra rồi xếp lại. Tôi bảo:
- Con mặc về đi.
Nó nói:
- Con về cho mẹ xem trước rồi con mặc sau.
Tôi nghĩ:"thôi thì tự do mà". Em đó ra về, cũng đã hơn 11 giờ trưa rồi. Nhà thờ Đức An của tôi có hàng rào trồng bằng cây chè, tôi thấy em đó ra đứng gần bờ rào rồi nhìn qua ngó lại, không thấy ai nó bèn mặc áo vào. Tôi thầm nghĩ “con bé này nói dóc”, tưởng nó đem về cho mẹ nó xem trước như lời nó nói, nhưng không phải, nó mặc áo vào rồi ngó trước ngó sau... nó ngắm nghía, vì nó là con gái mà! Nó nhảy nó mừng. Chỉ có một cái áo cũ thôi mà đã mang đến cho em một niềm vui rất lớn, tự nhiên tôi cảm động và nghĩ rằng: Từ nay về sau chúng ta nên cố gắng vận động để những ai có nhiều áo, như người kinh chẳng hạn, hãy cho tôi những quần áo để tôi có thể giúp đỡ cho người nghèo.
Tôi thường hay kể những chuyện đó cho giáo dân của tôi nghe và tôi bảo:
- Từ nay về sau ai có những cái áo lỗi thời chẳng hạn, hoặc là mình mặc không vừa nữa thì hãy đem cho tôi, tôi sẽ chọn "người mẫu" thật vừa với cái áo mà anh chị em đã cho tôi để tôi cho người nghèo.
Và từ đó tôi cũng không ngại ngùng gì để xin đồ của người khác cho người nghèo.
Khi tôi ở giáo xứ Đức An, có người đã cho tôi một cái máy chụp hình màu. Thỉnh thoảng tôi chụp cho các trẻ em trong xứ của mình. Khi tôi cho nó xem tấm hình tôi chụp nó, chẳng những nó không nói cảm ơn mà còn bảo:
- Gì mà xấu dzữ vậy?.
Mặc dù tấm hình rất đẹp và nó cũng khá đẹp, tôi chọc nó:
- Bởi vì mày xấu hoắc mà làm sao chụp đẹp cho được.
Thế nhưng mà ngược lại, mỗi lần tôi chụp hình cho các em người dân tộc trong các làng xa, tôi cho nó xem, nó nhìn tấm hình của nó, mắt nó sáng lên, nó cầm tấm hình ấp lên ngực rồi cảm ơn tôi và reo lên:
- Đẹp quá Cha ơi !... ôi chao đẹp quá Cha ơi !... con mừng lắm...
Những đám cưới của người dân tộc về tổ chức lễ cưới trong nhà thờ của tôi, tôi biết họ nghèo nên tôi kêu thợ chụp hình tới chụp chừng 5, 10 cái hình để làm một tập album nhỏ thôi, bởi vì nếu mình không kêu chụp hình thì họ không bao giờ dám kêu, bởi vì họ không có tiền. Tôi đã tặng họ một tập album nhỏ chụp trong lễ cưới của họ. Trời ơi! Họ vui mừng lắm lận đó. Thấy vậy tự nhiên tôi cũng muốn 1àm điều gì đó cho những ai mà người ta cảm thấy món quà đó đối với họ là niềm vui lớn.
Trong nhà tôi có cháu Dao, bà ngoại của cháu gần 70 tuổi nhưng chưa bao giờ có một tấm hình màu, hôm đó có một Cha dòng Phanxicô chụp hình bà ngoại của cháu, và cháu kể cho tôi nghe rằng:
- Bà ngoại con cứ cầm tấm hình xem miết, ngắm nghía miết thôi, bà hỏi con là bà đây hả? Chụp sao mà đẹp thế này... v.v...
Tự nhiên tôi nghĩ:
Đối với những người nghèo món quà tuy nhỏ mà niềm vui thì rất lớn.
Có một lần kia tôi đi thăm một làng cùi và phát quà cho họ, họ vui lắm. Các nữ tu người dân tộc nói với tôi:
- Ở trong làng có một em bị sốt bại liệt, là con cái của người cùi. Em biết có Linh Mục tới nên em ao ước được gặp Cha. Cha tới thăm em một chút.
Nghe vậy tôi liền lấy theo một phần quà, tôi được các nữ tu dẫn tới nhà em. Căn nhà của em là nhà sàn, vì em bị bại liệt nên bố mẹ em làm một cái chòi trước nhà của mình cho em ở để bạn bè em đến chơi với em cho vui. Trời ơi! Cái chòi của em nó thấp lắm, mái lợp bằng tranh, vách làm bằng tre đập dập, nên khi tre khô thì nó bị nhót lại, ở ngoài nhìn vào không thấy gì, nhưng ở trong nhìn ra thì thấy được bên ngoài. Cái chõng (cái giường) em nằm, chân chõng cao chừng 2, 3 tấc thôi, mà nền thì nền đất, mỗi khi trời mưa nước nó chảy dưới chân giường của em.
Em nghe đoàn tới và đang nói chuyện xôn xao ở bên ngoài, em kêu to:
- Cha ơi! Con vui lắm vì Cha tới thăm con...
Tôi chỉ nghe tiếng nói mà chưa thấy em. Khi vào trong cái chòi của em tôi phải cúi khom người xuống, trong chòi thì tối, tôi chỉ thấy một đống mền rách. Khi mắt tôi làm quen được với bóng tối thì bỗng nhiên tôi thấy một khuôn mặt giống như thiên thần, trên môi em nở một nụ cười rất xinh làm sáng bừng cả gương mặt. Tôi thấy em nằm trong một chỗ tồi tàn như vậy, không đủ sức nhận quà từ tay tôi mà em vẫn cười tươi như vậy... Tự nhiên tôi nghĩ mình nhận được rất nhiều ơn của Chúa mà mình không biết, còn những người như em bé này bị đủ thứ thiệt thòi mà lại có nụ cười tươi ơi là tươi như thiên thần vậy. Tôi đã khóc, đó là điều tự nhiên thôi, tôi khóc vì tôi quá xúc động.
Ai đó đã chụp cho tôi một tấm hình: trẻ thì cười còn tôi thì khóc, và tôi đã ghi một câu ở phía dưới: "Người ta cười mà tôi khóc". Đó chính là tấm gương tốt cho tôi, luôn nhắc nhở tôi phải biết cám ơn Chúa vì những gì Chúa đã ban cho tôi, và tôi cũng nhắc nhở với anh chị em giáo dân của tôi như vậy. Nhiều khi mình không thấy ơn Chúa đến mỗi ngày trong đời sống của mình. Chúa ban cho mình đủ thứ ơn mà chúng ta vẫn phàn nàn, cũng như những con cái của nhà giàu, cha mẹ sắm cho đủ thứ mà vẫn trách phiền cha mẹ...
Cũng là chuyện trong làng đó: khi chúng tôi chuẫn bị ra về thì tôi thấy các trẻ em con của người cùi bu lên xe tải của tôi để rờ cái bánh xe, cái thùng xe.
Tôi hỏi các em:
- Chúng con đi xe chưa?
Chúng trả lời:
- Chúng con đã thấy xe mà chưa bao giờ chúng con được đi xe.
Tôi bảo các em lên xe, tài xế của tôi tuy là người không có đạo nhưng là một người rất thương người nghèo, anh tên là Hùng. Tôi bảo anh Hùng lái xe chạy qua chạy lại, đi lui đi tới trong làng thôi cũng được, đi từ đầu làng tới cuối xóm cho các em vui. Trời ơi! Một xe đầy trẻ em, đứa nào cũng la lối, reo cười trên xe khi xe chạy. Tự nhiên tôi cảm thấy có điều gì đó làm cho lòng tôi bùi ngùi. Bởi vì sao? Bởi vì cái nhu cầu hết sức là bình thường mà các em cũng chưa bao giờ được nếm thử.
Xe ngừng lại cho các em xuống, chúng tôi chuẩn bị về thì người lớn cũng xin tôi:
- Cha cho chúng con đi xe một chút đi.
Thế là chúng tôi cũng cho người lớn lên xe. Người nào leo không được thì phải cõng lên. Mà người lớn đi trên xe, khi xe chạy trong làng họ cũng vui vẻ nói chuyện như là trẻ em vậy. Từ đó tôi nghĩ rằng: có những cái, những điều chúng ta coi là rất bình thường khi sử dụng, nhưng những người nghèo thì chưa bao giờ được hưởng.
Tại Kontum có nhiều nhà mồ côi mang tên là Vinh Sơn. Một lần tới thăm nhà mồ côi, tôi hỏi các em:
- Chúng con có bao giờ thấy biển chưa?
Các em trả lời:
- Chúng con chỉ thấy biển trên tivi thôi.
Thế rồi tôi mướn xe đưa các em đi, bởi vì tôi có liên lạc được với khu vực điều trị phong do các sơ nữ tu dòng Thừa Sai Phan Sinh phụ trách. Các sơ đồng ý cho các em tới chơi vài ngày để xem và tắm biển.
Rồi tôi đưa các em đi. Trời ơi! Khi xe tới một khúc quanh ở Ghềnh Ráng. Một đứa vừa thấy biển nó liền la lên:
- Biển kìa, biển kìa.
Tất cả các em ở trên xe đều đứng lên hết và reo to:
- Biển... thấy biển rồi... thấy biển rồi... biển lớn quá...
Tự nhiên tôi cảm động, chỉ mới thấy biển mà thôi nhưng đã là một niềm vui lớn cho các em rồi.
Sau đó thì vào tới chỗ của các sơ, tôi bảo các em chịu khó chờ các sơ, vì chúng nó thấy biển là nôn nóng không chịu được, chỉ muốn chạy ngay xuống biển mà thôi. Tôi nói:
- Các con hãy chờ một chút, các sơ ra mình chào các sơ rồi mình đi ra biển.
Có một số em không chờ được nữa nên đã chạy ra biển. Khi các sơ ra, tôi phải tập trung các em lại để cho các em được chào sơ, sau đó thì cho các em tắm biển, nhưng vì số trẻ em đông nên các sơ phải dặn dò:
- Các con chỉ được ra tới đó thôi, chỉ được tắm ở chỗ đó mà thôi.
Trời ơi! Lần đầu tiên trong đời các em được tắm biển nên chúng nó cứ mặc nguyên áo quần như thế mà xuống tắm, chúng nó vừa tắm vừa nô đùa. Đến chừng kêu lên thì không đứa nào muốn lên... Sau đó chúng tôi dẫn các em đi coi xe lửa vì các em chưa bao giờ thấy xe lửa. Chúng tôi xin được vào nhà ga. Các em vào nhà ga, chúng nó rờ 2 cái đường ray xe lửa rồi chúng nó hỏi tôi là làm sao xe nó chạy được mà không bị rớt ra ngoài? Tôi cũng không biết phải giải thích bằng tiếng dân tộc như thế nào để cho các em nó hiểu. Tôi bèn nói:
- Các con đi vào gặp ông xếp ga.
Bởi vì chúng tôi không được ở phía trong sân ga khi xe lửa đến. Các em đã hát tặng cho ông sếp ga một bài hát rất hay, ông thích lắm và đồng ý cho các em ở lại nhưng chỉ đứng một nơi thôi để chờ xe lửa chạy tới.
Khi xe lửa chạy tới... ôi chao ơi! Đối với các em, đây đúng là một điều rất lạ lùng: bánh xe thì như vậy, chạy trên cái đường thì như vậy mà nó không rớt ra... rồi các em chỉ chỏ với nhau như thế này, thế kia... Tôi rất sung sướng khi thấy các em thích thú, vui vẻ.
Ngày hôm sau chúng tôi chở các em đi xem một chiếc tàu thủy ở bến cảng Qui Nhơn. Các em đứng dưới bến cảng nhìn lên chiếc tàu thủy, chúng nó nói là "cái nhà lầu chạy trên nước", và các em đứng dưới hát cho các thủy thủ trên tàu nghe. Cuối cùng thì các em cũng được lên tàu một chút để xem vài thứ ở trên tàu. Đó là một điều rất mới lạ đối với các em.
Mỗi lần mướn xe đi Qui Nhơn như vậy thì tốn khá nhiều tiền, nên sau này chúng tôi quyết định tìm cách để mua một chiếc xe. Năm 2003 tôi đã mua được một chiếc xe 25 chỗ để cho những người dân tộc ở xa tận trong các rừng núi, cho những người nghèo và thậm chí cho những người cùi cũng được đi xe để thăm biển, thăm những nơi này nơi khác, những nơi mà họ rất lạ lùng và vô cùng ngạc nhiên. Chẳng hạn khi tới biển thì họ lấy chai đựng nước biển để đem về. Vì thế chúng tôi đã mua chiếc xe 25 chỗ ngồi để phục vụ người nghèo, cho tới bây giờ...
Qủa thật thì các Linh Mục và các tu sĩ đã làm rất nhiều việc như thế trong công tác mục vụ ở trong Giáo Phận Kontum cho anh em người dân tộc. Chúng tôi rất cảm phục tấm gương của các nữ tu và các Linh Mục, vì suốt cuộc đời họ đã sống cho người dân tộc, đã có lòng thương yêu và tạo rất nhiều cơ hội cũng như làm nhiều việc để phục vụ cho người dân tộc nghèo và sống gắn bó với người dân tộc.
Món quà tuy nhỏ mà niềm vui thì rất lớn là như vậy. Đây chỉ là một số ít câu chuyện trong muôn vàn câu chuyện mà tôi biết và đã chứng kiến, tôi chỉ kể vài chuyện điển hình như trên, để chúng ta thấy rằng: dù là một ly nước lã thôi nhưng cũng không mất công đâu. Chúa không đòi chúng ta cho nhiều, nhưng Chúa đòi chúng ta cho bằng cả tấm lòng chân thành.

... CÒN TIẾP ...

NHỮNG ĐIỀU CHIA XẺ - (12) NHỮNG ĐIỀU DỄ THƯƠNG NƠI NGƯỜI ANH EM DÂN TỘC - Lm Phêrô Nguyễn Vân Đông



NHỮNG ĐIỀU CHIA SẺ

12 .
NHỮNG ĐIỀU DỄ THƯƠNG

NƠI NGƯỜI ANH EM DÂN TỘC

Chúng tôi phải nhìn nhận một điều là người anh em dân tộc quen sống giữa thiên nhiên, giữa núi rừng, chính đời sống gần gũi với thiên nhiên rừng núi như vậy đã hun đúc trong lòng người dân tộc có những tâm tình hết sức là đơn sơ, mộc mạc, vô cùng dễ thương, dễ mến. Vì những đức tính đó của họ mà mình rất yêu mến và rất thích đến với họ. Những câu chuyện mà tôi kể sau đây, trong muôn vàn câu chuyện tôi thấy được ở nơi người anh em dân tộc.
* Câu chuyện thứ nhất:
Tháng 9 năm 2009 xảy ra một trận lũ lụt lớn ở tỉnh Kontum, các huyện Dak Glei, Ngọc Hồi, Dak Tô, Dak Hà và luôn cả thành phố Kontum cũng bị ảnh hưởng khá nặng nề. Có rất nhiều đoàn từ thiện từ các nơi, kể cả các đoàn từ thiện của các tôn giáo khác, nhất là Phật Giáo đã đến với anh em người dân tộc trong vùng bị lũ lụt.
Đem quà tới với người dân tộc ta luôn có cảm giác rất dễ chịu vì họ không giành giật, không leo lên xe để rút hàng xuống trước như người kinh ở các nơi khác mà tôi nghe kể. Trong trận lũ lụt năm 2009 đó, Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt đã đề cử Cha Quế thuộc Caritas Hà Nội đến Kontum thăm viếng đồng bào dân tộc bị lũ lụt. Chúng tôi đi một xe tải chở quà gồm có: mì ăn liền, gạo, cá khô và các thứ khác... v.v... có cả bánh kẹo nữa bởi vì đó là những ngày sau tết Trung Thu.
Lần này thì phát quà cho làng Kon Mơnay, là một làng trong thành phố Kontum bị nước tràn về ngập cả làng, chỉ toàn là bùn đất. Cùng đi với Cha sở là Cha Hữu. Người dân tộc đã tập trung tại đó. Khi chở quà tới làng Kon Mơnay, Cha Quế rất ngạc nhiên vì không thấy có người nào bu lại rồi leo trèo lên xe, cũng không ai giành giật nhau gì cả (bởi vì Ngài đã đi giúp các nơi khác của người kinh). Anh em dân tộc được Cha Hữu bảo đem quà từ trên xe xuống. Gạo để với gạo, mì ăn liền để với mì ăn liền, cá khô để với cá khô... v.v...
Tiếp theo đó người dân tộc đứng quanh rồi có một người đại diện là chú Giáo Phu của làng kêu tên từng người. Kêu tên ai thì người đó tới nhận mỗi thứ một cái... và cứ như thế mà họ nhận quà một cách hết sức là thứ tự trong sự trật tự. Những người không có mặt ngày hôm đó vì đi lao động chỗ này chỗ kia thì chú Giáo Phu ghi lại tên của những người chưa lãnh quà, ông bảo anh em đã lãnh quà giúp thì đem hàng gởi vào phòng áo của nhà thờ Kon Mơnay. Người Giáo Phu nói khi nào họ về thì họ sẽ đến lãnh phần quà của mình.
Cha Quế rất ngạc nhiên về sự thứ tự và trật tự khi họ nhận quà, so với những nơi khác: mới nghe nói xe chở hàng tới, dù xe chưa tới nơi mà người ta đã chạy theo rồi leo lên xe kéo hàng, kéo quà xuống như là ăn cắp vậy.
Có một chuyện rất dễ thương nữa là: hôm đó Cha Quế thấy các em nhỏ đứng đó, Cha đã cho mỗi em một cái bánh trung thu. Nhưng có một em cũng đứng gần đó mà không lảnh bánh trung thu, Cha kêu tôi hỏi sao em kia sao nó không lãnh bánh? Rồi Ngài đưa cho nó một cái, nó lắc đầu không nhận. Tôi hỏi nó:
- Sao con không lấy bánh?
Nó trả lời:
- Con lấy rồi.
Tôi hỏi:
- Con lấy rồi thì đâu rồi?
Nó nói:
- Con ăn rồi.
Tôi hỏi tiếp:
- Con có thích ăn nữa không?
Nó gật đầu:
- Con thích.
Và rồi lúc đó nó mới dám đưa tay ra nhận quà lần thứ 2.
Đó là điều rất dễ thương nơi trẻ em người dân tộc. Đã lấy quà rồi thì thôi chớ không có cái kiểu lấy tay trái xong rồi dấu tay trái sau lưng, sau đó đưa tay phải ra lấy tiếp như tôi đã thấy ở nhiều nơi
* Câu chuyện thứ hai:
Tôi không nhớ vào năm nào. Nhưng Chúa Nhật hôm đó cũng là vào gần dịp Trung Thu. Sáng đó tôi phải đi làm 2 lễ. Một lễ cho giáo dân người kinh cách chỗ tôi 15 km lúc 6g30 sáng. Sau đó 10g là lễ thứ 2 cho người dân tộc trong làng Ya Luh cách đó 5 km. Có một số ân nhân muốn tặng quà cho người nghèo. Tôi đem các phần quà trung thu đã được gói sẵn mỗi phần đâu ra đó. Đây là quà tôi muốn tặng cho các em học giáo lý mà thôi.
Chỗ giáo dân người kinh thì tôi để số quà dư ra khoảng 3, 4 phần. Sau lễ tôi bảo Ca Đoàn mà cũng là các anh chị giáo lý viên:
- Các con phát quà Trung Thu của các ân nhân này cho các em học giáo lý giúp Cha.
Mấy đứa nhỏ chen nhau, giành nhau rồi cuối cùng tôi nghe nói:
- Thưa Cha... thiếu.
Tôi nói không thể thiếu, vì ngoài danh sách của các em ra thì tôi luôn luôn mang dư vài phần quà. Các anh chị giáo lý viên nhìn qua cái giỏ cần xế đựng quà của các em người dân tộc rồi ngõ ý xin thêm. Tôi dứt khoát nói:
- Không, đây là phần quà của các em người dân tộc, cũng đâu ra đó cả rồi, không được lấy.
Thế là chúng tôi đi. Ra khỏi nơi làm lễ chúng tôi thấy có 2 bà già, trên tay mỗi bà xách một phần quà, tôi dừng xe lại hỏi:
- Tại sao lại lấy quà của các em giáo lý chứ?
Hai bà trả lời:
- Ở nhà có mấy đứa cháu nhỏ.
Tôi nói:
- Không được, đâu phải ra đó, quà này chỉ phát cho các em học giáo lý mà thôi, các bà không được làm như thế.
Rồi tôi lấy lại phần quà đó luôn. Đây cũng là một cách giáo dục để cho họ biết rằng " cái gì ra cái đó". Tôi lên xe đi tiếp, lúc đó tôi nói với những ân nhân ngồi trên xe:
- Chút nữa vào trong làng của người dân tộc mà xem, không có chuyện giành giật như thế này đâu.
Và quả nhiên là như thế. Tôi để giỏ cần xế trước hiên nhà thờ, tôi biết một điều chắc chắn là những người dân tộc đứng ở ngoài nhà thờ sẽ không ai dám đụng đến những cần xé đựng quà đó. Làm lễ xong tôi bảo các em học giáo lý:
- Những em nhỏ khác không học giáo lý thì các bà trong nhóm Phát Triển Phụ Nữ đã cho quà các em đó. Còn các em học giáo lý thì các con mỗi người có một phần quà. Có chị Mai đang đứng bên giỏ cần xế quà đó, các con cứ tự động ra lấy;" "minh nu minh pôm" (một đứa một cái). Thế là... y chang còn dư lại 4 phần quà, vì mỗi em chỉ lấy một phần của mình mà thôi. Thật dễ thương vô cùng!
Và như thế chúng ta sẽ dành tình cảm cho ai đây? dĩ nhiên là chúng ta dành tình cảm cho những người biết tôn trọng sự công bằng.
* Câu chuyện thứ ba:
Ngày hôm đó có lễ tạ ơn của một Cha mới Dòng Phanxicô. Bởi vì Cha đó làm việc cho người dân tộc và cho người kinh nữa nên lễ tạ ơn được làm trong một nhà thờ của thành phố Pleiku. Hôm đó có một chuyện xảy ra làm tôi cũng mắc cỡ vì một số người kinh của chúng ta. Và khi tôi nghĩ lại, tôi thương người dân tộc nhiều hơn. Chuyện như sau:
Sau lễ thì tiệc mùng được tổ chức ở 2 nơi, một nơi của khu vực người dân tộc, một nơi dành cho người kinh thì ăn buffet cùng với các Cha, các tu sĩ, các ân nhân, thân nhân của Linh Mục mới và các giáo dân người kinh. Có những dãy bàn để thức ăn, những két bia, nước ngọt...
Lễ xong, các Cha cũng như các tu sĩ, các thân nhân... mãi lo chụp hình. Chưa chi mà tôi đã thấy có một số người đi vào rồi thì vừa bốc vừa hốt thức ăn, thậm chí có mấy anh lại mở két bia lon ra rồi lấy bỏ vô túi quần. Tôi hết sức mắc cỡ vì các Cha cũng như các tu sĩ chưa có ai vào, cũng chưa cầu nguyện trước khi ăn theo lẽ thông thường. Mà đằng này người ta lại tới dành nhau để lấy thức ăn trên bàn, thậm chí còn lấy khăn giấy (dùng làm khăn ăn) để bỏ chả ram hay thứ này, thứ kia vào rồi gói lại.
Đúng là tôi cảm thấy vô cùng ngượng và xấu hổ, tôi đã cầm micro lên và nói lớn:
- Hãy để lại, hãy chờ các Cha tới, chúng ta cầu nguyện rồi chúng ta hãy ăn. Có ít thì chúng ta ăn ít, có nhiều thì chúng ta ăn nhiều. Chúng ta phải biết chờ đợi những người lớn hơn chúng ta chứ!
Những người đó rất khó chịu với tôi, nhưng tôi cảm thấy có một số giáo dân người kinh biết tự trọng cũng khó chịu vì những điều bất lịch sự như thế.
Trong khi đó ở bên khu vực người dân tộc thì khác, người ta đã kiên nhẫn chờ đợi, chờ đợi mãi cho đến khi các Cha đến uống một chút rượu đầu tiên, cũng như cầm một cái bánh thì người ta mới bắt đầu. Khi tôi đến chỗ của người dân tộc, tự trong thâm tâm tôi, tôi cảm thấy kính trọng họ vì họ đã biết chờ đợi, mặc dù phía người kinh ăn trước vì các Cha nhập tiệc ở bên đó trước. Người kinh thì vội vã lo ăn cho xong để về nhà lo công việc, còn người Dân Tộc thì họ mang cồng chiêng ra đánh, rồi họ nhảy múa, chờ các Cha đến để mời các Cha uống chút rượu cần trước, ăn cái gì đó trước, rồi họ mới vào bàn tiệc, rồi tiếp tục đánh cồng chiêng, cùng nhau nhảy múa để mừng các Cha.
Như thế thì ai dễ thương hơn ai chứ? Chúng ta phải làm thế nào để nêu cao những điều dễ thương đó là tấm gương tốt, đồng thời chúng ta phải xấu hổ vì có nhiều người kinh có những cử chỉ, hành động không tốt, làm gương xấu cho người khác.
* Câu chuyện thứ tư:
Tại một giáo xứ nọ của người kinh, mà Cha Sở thì coi 2 giáo xứ: một của người kinh và một của người Dân Tộc. Hôm đó là lễ mừng Bổn Mạng giáo xứ của người kinh. Cũng nhờ Kinh nghiệm buổi lễ lần trước nên Cha xứ không tổ chức ăn buffet nữa, mà mỗi người sẽ có một phần quà, trong đó có bánh mì và nhiều thứ thức ăn, có cả nước uống. Theo như Cha xứ cho tôi biết thì có đủ số các phần quà, bởi vì có đến 600 phần như thế, và người dự lễ hôm đó có lẽ không tới 600 người, vì giáo xứ này cũng xa thành phố và ít giáo dân.
Lễ xong rồi, người dân tộc cũng như lệ thường là đánh cồng chiêng, cầm tay nhau múa hát. Còn những người kinh họ ra lãnh mỗi người một phần quà, 5 phút sau là không thấy bóng dáng người kinh nào, họ nhận quà rồi và khi về nhà còn xúi con nhỏ của mình đến lấy thêm quà nữa. Còn lại những người dân tộc thì đương nhiên là thiếu quà rồi! Nhưng họ chia sẻ với nhau những gì còn lại mà vẫn tỏ ra vui vẻ, không có gì là khó chịu về những hành động tham lam của người kinh.
Một điều đáng buồn và mâu thuẫn là: lễ mừng bổn mạng của giáo xứ người kinh mà chỉ có người Dân Tộc ở lại vui vẻ với Cha xứ và chung vui với nhau.
* Câu chuyện thứ năm:
Hôm đó một vị đại diện tòa thánh đi thăm Giáo Hội Việt Nam, sau đó lên thăm Giáo Phận Kontum. Giám Mục Kontum tổ chức lễ tiép đón Phái Đoàn đại diện Tòa Thánh tại nhà thờ Dân Tộc của một làng dân tộc, dĩ nhiên là phải tổ chức tại nhà thờ lớn nhất của người dân tộc, đó là nhà thờ Plei Chuet tại Pleiku. Vì được tổ chức tại nhà thờ người dân tộc, hát lễ cũng là ca đoàn của người dân tộc nên buổi lễ hôm đó người dân tộc đông hơn người kinh.
Tôi biết lễ xong thì có tiệc tiếp đải phái đoàn và đại diện của Tòa Thánh, rồi còn có đại diện của chính quyền nữa. Giáo dân người dân tộc mang cồng chiêng đến đánh, rồi cùng nhau cầm tay hát múa rất là vui vẻ với phái đoàn.
Theo phong tục của người dân tộc, khi đãi tiệc họ để thức ăn lên những chiếc lá dọn trên những bàn dài và dùng tay để bốc ăn, có một ít bà người kinh vào và tự động gom lấy lá gói thịt mang đi!
Khi phái đoàn của Tòa Thánh và phái đoàn quan khách tới. Ban tổ chức phải vội vàng sửa sang lại bàn tiệc, để làm thế nào cho nó dễ coi một chút! Tôi nhìn thấy như vậy thì trong lòng vừa ngượng vừa mắc cỡ trước người dân tộc, may sao hôm đó có mặt tôi tại chỗ nên tôi đã ngăn chặn lại kịp thời, còn những người dân tộc đang dọn bàn không hề dám lên tiếng.
Tôi nhận xét một điều:
Đây là một trường hợp trong nhiều trường hợp người dân tộc thấy điều sai trái của người kinh mà không dám lên tiếng để ngăn chặn, mặc dù tôi biết rằng:tuy họ không nói ra nhưng chắc chắn trong thâm tâm họ không phục.
* Câu chuyện thứ sáu:
Người dân tộc mỗi khi tổ chức một buổi lễ gì đó trong làng của họ, nếu họ có mời người kinh thì luôn luôn họ tôn trọng khách mời. Có món gì ngon cũng để dành cho khách, như là xẻ thịt một con bò, con heo, hay chén rượu cần... mà họ cho là ngon thì họ đều nhường cho khách.
Ngày hôm đó là lễ khánh thành nhà thờ Kon Mah ở huyện Chư Păh. Cha sở tên là Binh. Lễ khánh thành nhà thờ này, đồng ý là cũng có một số người kinh đã giúp đỡ cho người dân tộc cất lên được cái nhà thờ đó. Trong làng có một cái nhà Rông thật dài. Lễ xong rồi, người dân tộc trong các làng tập trung (vì xứ đạo đó có tới 9 làng) và dọn tiệc trong nhà Rông đó. Chỉ có người kinh, quan khách và một số chức sắc của các làng dân tộc lên dự mà thôi, còn dân làng thì phải chờ đợi. Mỗi làng đều có tổ chức riêng, có ghè rượu riêng. Chờ các Cha và quan khách ăn rồi thì họ cũng mời chúng tôi tới chỗ đó để nhấp một chút rượu cần, ăn chút thức ăn. Tôi để ý điều này: Các thức ăn ngon thì tôi thấy họ dành để mời khách, còn họ... Những chuyện mà tôi đã chứng kiến, tôi nhận thấy cách cư xử của người dân tộc rất có Văn Hóa, mặc dù họ không được đi học nhiều như người kinh, nhưng họ biết cách cư xử, hiếu khách và biết tôn trọng khách. Chúng ta là người kinh nhưng cần phải học ở nơi họ những điều tuyệt vời này, vì thật sự thì có một số anh em người kinh trong cách cư xử đã thua xa những người dân tộc.

... CÒN TIẾP ...